2. Thủ đô: U-lan Ba-to.
3. Vị trí địa lý: Mông Cổ thuộc vùng Trung Á, bắc giáp Liên bang Nga, nam giáp Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, tây giáp Kadacstan. Phần lớn lãnh thổ là thảo nguyên, đồng cỏ và đồi núi. Rừng chiếm 10% diện tích, khí hậu lục địa, ít mưa, lạnh giá, mùa đông đến -30, - 40 độ C.
4. Diện tích: 1,565 triệu km2; có 21 tỉnh.
5. Dân số: 2,6 triệu người gồm hơn 10 dân tộc (năm 2009). Dân tộc Mông Cổ (Khalkh) chiếm trên 75% số dân
.
6. Ngày Quốc khánh: 11 tháng 7 (ngày cách mạng Nhân dân thắng lợi - 11/7/1921).
6. Ngày Quốc khánh: 11 tháng 7 (ngày cách mạng Nhân dân thắng lợi - 11/7/1921).
7. Tiền tệ: Đồng Tugrik
8. Thể chế:
- Quốc hội (nghị viện): 76 ghế, nhiệm kỳ 4 năm.
Tổng thống được bầu trực tiếp, nhiệm kỳ 4 năm.
- Chính phủ: là Chính phủ Liên hiệp giữa Đảng Nhân dân cách mạng Mông Cổ và Đảng Dân chủ, gồm 15 thành viên gồm: Thủ tướng, 2 Phó Thủ tướng và 12 Bộ trưởng.
9. Đại sứ quán
Địa chỉ Đại sứ quán Mông Cổ tại Việt Nam:
Địa chỉ: Khu Ngoại giao đoàn số 6, Vạn Phúc, Hà Nội, Việt Nam
Điện thoại: 04-328453009
Fax: 04-38454954
Email: mongembhanoi@vnn.vn
Đại sứ quán Việt Nam tại Mông Cổ:
Địa chỉ: Enkhtaivny Urgun Chuluu 47 – C.P.O Box 670 Ulaanbaator.
Điện thoại: +976-11-458917
Fax: +976-11-458923
Email: vinaemba@magicnet.mn
Giờ địa phương so với Việt Nam: + 1 giờ
Đây là quốc gia có diện tích lớn thứ 18 trên thế giới đồng thời là quốc gia không giáp biển có diện tích lớn thứ nhì, sau Kazakhstan. Với một diện tích rộng lớn nhưng dân số chỉ khoảng 3 triệu người (2007), Mông Cổ trở thành nước có mật độ dân cư thấp nhất hành tinh.
Phần lớn đất đai Mông Cổ không thể trồng trọt được, chủ yếu là thảo nguyên, đồi núi và sa mạc. Thủ đô và thành phố lớn nhất của Mông Cổ là Ulan Bator.
Vào thế kỉ 13, người Mông Cổ đã tiến hành những cuộc chiến tranh chinh phục khắp châu Á và châu Âu. Đế chế Mông Cổ lúc bấy giờ trở thành quốc gia rộng lớn và hùng mạnh nhất thế giới.
Từ cuối thế kỉ 17 đến năm 1911, Mông Cổ bị cai trị bởi triều Thanh của Trung Quốc. Vào năm 1924, nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ được thành lập và tiến hành xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa có liên kết chặt chẽ với Liên Xô. Sau khi chế độ cộng sản bị sụp đổ vào năm 1990, Mông Cổ đã tiến hành thông qua một bản hiến pháp mới vào năm 1992 đưa nước này chuyển sang thể chế cộng hòa nghị viện đa đảng.
Vùng đất Mông Cổ ngày nay từng là nơi sinh sống của rất nhiều tộc người từ thời tiền sử. Họ chủ yếu là những người dân du mục và dần dần phát triển thành những liên minh lớn mạnh. Năm 209 TCN, người Hung Nô đã thành lập một liên minh hùng mạnh dưới sự lãnh đạo của vua Mặc Đốn. Họ đã đánh bại người Donghu, vốn kiểm soát miền đông Mông Cổ trước kia rồi nhanh chóng trở thành một thế lực lớn uy hiếp Trung Hoa trong 3 thế kỉ sau đó. Triều Tần đã phải xây dựng Vạn Lí Trường Thành để ngăn chặn những sự xâm nhập từ phía bắc của người Hung Nô.
Sau khi bị người Trung Quốc đánh bại vào năm 428-431, một bộ phận người Hung Nô đã di chuyển sang phía tây và trở thành người Hung. Sau đó, người Rouran đã thay thế Hung Nô cai trị Mông Cổ cho đến khi bị đánh bại bởi người Đột Quyết. Người Đột Quyết cai quản Mông Cổ trong hai thế kỉ 7 và 8. Tiếp đó, họ lại bị thay thế bởi tổ tiên của người Uyghur ngày nay, và sau đó là người Khiết Đan và người Nữ Chân. Vào thế kỉ 10, Mông Cổ bị chia thành rất nhiều bộ lạc nhỏ liên kết rời rạc với nhau.
Đế quốc Mông Cổ được Thành Cát Tư Hãn thành lập năm 1206 sau khi thống nhất các bộ lạc Turk-Mông Cổ và sau đó bành trướng sang đại lục Á-Âu, khởi đầu bằng việc xâm lược Tây Hạ ở phía bắc Trung Quốc và đế quốc Khwarezm (Hoa Thích Tử Mô) ở Ba Tư. Vào thời kỳ cực thịnh của nó, Hòa bình Mông Cổ (con đường tơ lụa thuộc đế quốc Mông Cổ) đã tạo điều kiện cho giao lưu văn hóa và mậu dịch giữa phương Đông và phương Tây trong thời kỳ thế kỷ 13 - thế kỷ 14.
Đây là quốc gia có diện tích lớn thứ 18 trên thế giới đồng thời là quốc gia không giáp biển có diện tích lớn thứ nhì, sau Kazakhstan. Với một diện tích rộng lớn nhưng dân số chỉ khoảng 3 triệu người (2007), Mông Cổ trở thành nước có mật độ dân cư thấp nhất hành tinh.
Phần lớn đất đai Mông Cổ không thể trồng trọt được, chủ yếu là thảo nguyên, đồi núi và sa mạc. Thủ đô và thành phố lớn nhất của Mông Cổ là Ulan Bator.
Vào thế kỉ 13, người Mông Cổ đã tiến hành những cuộc chiến tranh chinh phục khắp châu Á và châu Âu. Đế chế Mông Cổ lúc bấy giờ trở thành quốc gia rộng lớn và hùng mạnh nhất thế giới.
Từ cuối thế kỉ 17 đến năm 1911, Mông Cổ bị cai trị bởi triều Thanh của Trung Quốc. Vào năm 1924, nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ được thành lập và tiến hành xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa có liên kết chặt chẽ với Liên Xô. Sau khi chế độ cộng sản bị sụp đổ vào năm 1990, Mông Cổ đã tiến hành thông qua một bản hiến pháp mới vào năm 1992 đưa nước này chuyển sang thể chế cộng hòa nghị viện đa đảng.
Vùng đất Mông Cổ ngày nay từng là nơi sinh sống của rất nhiều tộc người từ thời tiền sử. Họ chủ yếu là những người dân du mục và dần dần phát triển thành những liên minh lớn mạnh. Năm 209 TCN, người Hung Nô đã thành lập một liên minh hùng mạnh dưới sự lãnh đạo của vua Mặc Đốn. Họ đã đánh bại người Donghu, vốn kiểm soát miền đông Mông Cổ trước kia rồi nhanh chóng trở thành một thế lực lớn uy hiếp Trung Hoa trong 3 thế kỉ sau đó. Triều Tần đã phải xây dựng Vạn Lí Trường Thành để ngăn chặn những sự xâm nhập từ phía bắc của người Hung Nô.
Sau khi bị người Trung Quốc đánh bại vào năm 428-431, một bộ phận người Hung Nô đã di chuyển sang phía tây và trở thành người Hung. Sau đó, người Rouran đã thay thế Hung Nô cai trị Mông Cổ cho đến khi bị đánh bại bởi người Đột Quyết. Người Đột Quyết cai quản Mông Cổ trong hai thế kỉ 7 và 8. Tiếp đó, họ lại bị thay thế bởi tổ tiên của người Uyghur ngày nay, và sau đó là người Khiết Đan và người Nữ Chân. Vào thế kỉ 10, Mông Cổ bị chia thành rất nhiều bộ lạc nhỏ liên kết rời rạc với nhau.
Đế quốc Mông Cổ được Thành Cát Tư Hãn thành lập năm 1206 sau khi thống nhất các bộ lạc Turk-Mông Cổ và sau đó bành trướng sang đại lục Á-Âu, khởi đầu bằng việc xâm lược Tây Hạ ở phía bắc Trung Quốc và đế quốc Khwarezm (Hoa Thích Tử Mô) ở Ba Tư. Vào thời kỳ cực thịnh của nó, Hòa bình Mông Cổ (con đường tơ lụa thuộc đế quốc Mông Cổ) đã tạo điều kiện cho giao lưu văn hóa và mậu dịch giữa phương Đông và phương Tây trong thời kỳ thế kỷ 13 - thế kỷ 14.
Vào thời điểm Thành Cát Tư Hãn mất năm 1227, đế quốc này được chia cho 4 người con trai của ông với người con trai thứ 4 là đại hãn, và đến những năm 1350, các triều Hãn rạn nứt và đánh mất trật tự mà Thành Cát Tư Hãn đã mang lại. Cuối cùng, các triều Hãn xa rời nhau, trở thành các triều đại Ilkhanate ở Ba Tư, triều Chagatai ở Trung Á, Kim Trướng hãn quốc ở địa phận nước Nga ngày nay, và triều Nhà Nguyên ở Trung Quốc
Sau khi bị người Hán đánh bại, người Mông Cổ đã phải rút lui về đất nước mình và nhà Nguyên tiếp tục tồn tại ở đó, được các nhà sử học hiện đại gọi là nhà Bắc Nguyên. Nhà Minh điều quân xâm chiếm Mông Cổ năm 1380, và vào năm 1388 đã giành được một thắng lợi quan trọng, Karakorum (thủ đô Mông Cổ) bị tàn phá, người Mông Cổ về cơ bản nằm trong hệ thống chư hầu của Nhà Minh.
Tiếp đó, vào thế kỷ 17 người Mông Cổ bị người Mãn Châu (Nữ Chân) tấn công mạnh mẽ. Năm 1636, Mông Cổ trở thành một phần của đế chế Mãn Thanh. Năm 1911 nhà Mãn Thanh sụp đổ, Mông Cổ trở thành nước tự trị từ 1911 đến 1919.
Ngày 11 tháng 7 năm 1921, được Liên Xô ủng hộ nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ ra đời theo (chế độ Xã hội chủ nghĩa). Từ 1990, do ảnh hưởng từ sự sụp đổ của Liên Xô, Mông Cổ bắt đầu tiến trình dân chủ hóa, cải tổ kinh tế, chính trị, chuyển sang chế độ đa nguyên, đa đảng với 18 chính đảng chính thức hoạt động, trong đó Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ (cộng sản) là chính đảng lớn nhất.
Địa lý

Trung tâm Mông Cổ là thảo nguyên tương đối bằng phẳng. Phần phía nam bị bao phủ bởi sa mạc Gobi, trong khi phía bắc và phía tây là núi. Hồ Uvs Nuur, chung với Cộng hòa Tuva thuộc Liên bang Nga là một di sản tự nhiên thế giới.
Hầu như toàn bộ đất nước có nhiệt độ cao trong mùa hè và rất lạnh vào mùa đông, với nhiệt độ trung bình tháng tháng 1 xuống dưới −30 °C (−22 °F). Đôi khi còn có những điều kiện khí hậu như zud hay dzud. Thủ đô Ulan Bator có nhiệt độ trung bình thấp nhất trong tất cả các thủ đô trên thế giới
Chính trị và hành chính
Hiện nay, chính trị ở Mông Cổ là đa đảng, có 18 chính đảng cùng hoạt động. Đảng lớn nhất là Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ
Cơ cấu chính trị với hình thức dân chủ nghị viện, đứng đầu nhà nước là tổng thống với nhiệm kỳ 04 năm. Tổng thống hiện nay là ông Nambaryn Enkhbayar được bầu làm lãnh đạo từ tháng 5/2005
Chính phủ hiện nay của Mông Cổ là chính phủ liên hiệp, với nhiệm kỳ 04 năm. Thủ tướng hiện nay là ông Sanjaagiin Bayar,
Mông Cổ phân chia hành chính gồm 21 tỉnh dưới quyền trung ương

Đối ngoại
Mông Cổ là thành viên của Liên Hiệp Quốc, đồng thời cũng là thành viên của các tổ chức như WTO, ARF, ASEM
Kinh tế
Từ năm 1990, cùng với sự thay đổi ở Liên Xô, Mông Cổ chuyển sang nền kinh tế thị trường, đến những năm gần đây khu vực kinh tế tư nhân chiếm tới 70%, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm từ 5-7%, với ngành kinh tế chính là ngành chăn nuôi gia súc trên các đồng cỏ. Kim ngạch thương mại hàng năm trong những năm gần đây mới đạt hơn 1tỷ USD
Dân cư
Mông Cổ có tổng dân số gần 3 triệu người (thống kê năm 2007), đứng hàng thứ 139 trên thế giới với hơn 10 dân tộc trong đó dân tộc chính là người Mông Cổ (Khalkh chiếm khoảng 75% dân số. Riêng tại thủ đô Ulaanbaatar có tới hơn 860 nghìn người chiếm gần 1/3 tổng dân số cả nước.
Sau khi bị người Hán đánh bại, người Mông Cổ đã phải rút lui về đất nước mình và nhà Nguyên tiếp tục tồn tại ở đó, được các nhà sử học hiện đại gọi là nhà Bắc Nguyên. Nhà Minh điều quân xâm chiếm Mông Cổ năm 1380, và vào năm 1388 đã giành được một thắng lợi quan trọng, Karakorum (thủ đô Mông Cổ) bị tàn phá, người Mông Cổ về cơ bản nằm trong hệ thống chư hầu của Nhà Minh.
Tiếp đó, vào thế kỷ 17 người Mông Cổ bị người Mãn Châu (Nữ Chân) tấn công mạnh mẽ. Năm 1636, Mông Cổ trở thành một phần của đế chế Mãn Thanh. Năm 1911 nhà Mãn Thanh sụp đổ, Mông Cổ trở thành nước tự trị từ 1911 đến 1919.
Ngày 11 tháng 7 năm 1921, được Liên Xô ủng hộ nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ ra đời theo (chế độ Xã hội chủ nghĩa). Từ 1990, do ảnh hưởng từ sự sụp đổ của Liên Xô, Mông Cổ bắt đầu tiến trình dân chủ hóa, cải tổ kinh tế, chính trị, chuyển sang chế độ đa nguyên, đa đảng với 18 chính đảng chính thức hoạt động, trong đó Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ (cộng sản) là chính đảng lớn nhất.
Địa lý
Trung tâm Mông Cổ là thảo nguyên tương đối bằng phẳng. Phần phía nam bị bao phủ bởi sa mạc Gobi, trong khi phía bắc và phía tây là núi. Hồ Uvs Nuur, chung với Cộng hòa Tuva thuộc Liên bang Nga là một di sản tự nhiên thế giới.
Hầu như toàn bộ đất nước có nhiệt độ cao trong mùa hè và rất lạnh vào mùa đông, với nhiệt độ trung bình tháng tháng 1 xuống dưới −30 °C (−22 °F). Đôi khi còn có những điều kiện khí hậu như zud hay dzud. Thủ đô Ulan Bator có nhiệt độ trung bình thấp nhất trong tất cả các thủ đô trên thế giới
Chính trị và hành chính
Hiện nay, chính trị ở Mông Cổ là đa đảng, có 18 chính đảng cùng hoạt động. Đảng lớn nhất là Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ
Cơ cấu chính trị với hình thức dân chủ nghị viện, đứng đầu nhà nước là tổng thống với nhiệm kỳ 04 năm. Tổng thống hiện nay là ông Nambaryn Enkhbayar được bầu làm lãnh đạo từ tháng 5/2005
Chính phủ hiện nay của Mông Cổ là chính phủ liên hiệp, với nhiệm kỳ 04 năm. Thủ tướng hiện nay là ông Sanjaagiin Bayar,
Mông Cổ phân chia hành chính gồm 21 tỉnh dưới quyền trung ương
Đối ngoại
Mông Cổ là thành viên của Liên Hiệp Quốc, đồng thời cũng là thành viên của các tổ chức như WTO, ARF, ASEM
Kinh tế
Từ năm 1990, cùng với sự thay đổi ở Liên Xô, Mông Cổ chuyển sang nền kinh tế thị trường, đến những năm gần đây khu vực kinh tế tư nhân chiếm tới 70%, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm từ 5-7%, với ngành kinh tế chính là ngành chăn nuôi gia súc trên các đồng cỏ. Kim ngạch thương mại hàng năm trong những năm gần đây mới đạt hơn 1tỷ USD
Dân cư
Mông Cổ có tổng dân số gần 3 triệu người (thống kê năm 2007), đứng hàng thứ 139 trên thế giới với hơn 10 dân tộc trong đó dân tộc chính là người Mông Cổ (Khalkh chiếm khoảng 75% dân số. Riêng tại thủ đô Ulaanbaatar có tới hơn 860 nghìn người chiếm gần 1/3 tổng dân số cả nước.
Ngôn ngữ chính thức của Mông Cổ là tiếng Mông Cổ Khalkha, và được 90% dân số sử dụng. Nhiều phương ngữ khác nhau được dùng trên khắp nước. Những phương ngữ này gồm trong các ngôn ngữ Mông Cổ. Tiếng Mông Cổ thường được gộp vào trong các ngôn ngữ Altaic, một nhóm các ngôn ngữ được đặt theo tên dãy núi Altay và cũng bao gồm cả các ngôn ngữ Turk và Tungus.
Ngày nay, tiếng Mông Cổ được viết bằng bảng chữ cái Kirin, dù trong quá khứ nó được viết bằng ký tự Mông Cổ. Một kế hoạch tái sử dụng ký tự cũ được dự định vào năm 1994, nhưng vẫn chưa diễn ra vì nhiều lý do.
Ngày nay, tiếng Mông Cổ được viết bằng bảng chữ cái Kirin, dù trong quá khứ nó được viết bằng ký tự Mông Cổ. Một kế hoạch tái sử dụng ký tự cũ được dự định vào năm 1994, nhưng vẫn chưa diễn ra vì nhiều lý do.
Ở phía tây đất nước, tiếng Kazakh và tiếng Tuva, cùng với các ngôn ngữ khác, cũng được sử dụng. Tiếng Nga là ngoại ngữ được dùng phổ thông nhất ở Mông Cổ, tiếp sau là tiếng Anh, dù tiếng Anh đã dần thay thế tiếng Nga trở thành ngôn ngữ thứ hai. Tiếng Triều Tiên đã trở thành phổ thông bởi có hàng chục nghìn người Mông Cổ làm việc ở Hàn Quốc. Sự quan tâm tới tiếng Trung Quốc, ngôn ngữ của cường quốc láng giềng, cũng đã gia tăng. Tiếng Nhật cũng phổ biến trong giới trẻ. Một số người có học và lớn tuổi Mông Cổ nói một chút tiếng Đức, bởi họ đã từng theo học tại Đông Đức cũ, trong khi một số nói các các ngôn ngữ thuộc của các quốc gia Khối Đông Âu cũ. Bên cạnh đó, nhiều thanh niên Mông Cổ sử dụng thành thạo các ngôn ngữ Tây Âu bởi họ học và làm việc tại các quốc gia đó gồm Đức, Pháp và Italia. Người điếc ở Mông Cổ sử dụng ngôn ngữ ký hiệu Mông Cổ.
Đường sắt xuyên Mông Cổ là tuyến đường sắt chính nối giữa Mông Cổ và các nước láng giềng. Nó khởi đầu tại Đường sắt xuyên Siberia ở Nga tại thị trấn Ulan Ude, chạy vào Mông Cổ, chạy qua Ulaanbaatar, sau đó vào Trung Quốc tại Erenhot nơi nó nhập vào hệ thống đường sắt Trung Quốc. Một tuyến đường sắt riêng biệt nối thành phố phía đông Choibalsan với tuyến Đường sắt xuyên Siberia; tuy nhiên, tuyến đường nối này đã bị đóng với hành khách sau thị trấn Chuluunkhoroot của Mông Cổ.
Mông Cổ có một số sân bay nội địa. Sân bay quốc tế duy nhất là Sân bay Quốc tế Chinggis Khaan gần Ulaanbaatar. Có các chuyến bay thẳng giữa Mông Cổ và Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga và Đức. MIAT là hãng hàng không lớn nhất tại Mông Cổ và cung cấp cả các chuyến bay nội địa và quốc tế.
Đa phần đường bộ ở Mông Cổ chỉ là đường rải sỏi hay đơn giản chỉ là những con đường đất. Có những tuyến đường trải nhựa từ Ulaanbaatar tới biên giới Nga và Trung Quốc, và từ Darkhan tới Bulgan. Một số dự án xây dựng đường hiện đang được thực hiện, ví dụ việc xây dựng cái gọi là tuyến đường "Đường Thiên niên kỷ" đông tây.





0 nhận xét:
Đăng nhận xét