Hiển thị các bài đăng có nhãn Mông Cổ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Mông Cổ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 25 tháng 8, 2015

8 điều thú vị về đế chế Mông Cổ huyền thoại

Ít người biết rằng, tuy mạnh về phương diện vũ khí nhưng các chiến binh Mông Cổ thời xưa lại không chú ý nhiều đến áo giáp.



1. Phụ nữ Mông Cổ
 
Các nhà sử học thường có xu hướng miêu tả kỹ lưỡng về những đội quân Mông Cổ dũng mãnh ngoài chiến trận. Tuy nhiên, họ lại hiếm khi hoặc thường không miêu tả những người phụ nữ Mông Cổ. Điều này có vẻ khá bất công vì người phụ nữ Mông Cổ cũng có vị trí cao trong xã hội.
Trong xã hội Mông Cổ, phụ nữ có nhiệm vụ phát triển kinh tế trong khi những người đàn ông tập luyện đao kiếm, võ thuật để trở thành chiến binh dũng mãnh khi xuất trận. Thêm vào đó, phái đẹp Mông Cổ cũng đảm nhiệm vai trò là các pháp sư có địa vị trong xã hội. So với vai trò của phụ nữ Châu Âu thời kỳ trung đại, vị thế của phụ nữ Mông Cổ được đề cao hơn nhiều. Thêm vào đó, họ còn trở thành những thủ lĩnh hùng mạnh của bộ tộc.
Sau khi Thành Cát Tư Hãn qua đời, các con dâu và con gái của ông đã hợp sức đấu tranh để giành quyền lực cho phụ nữ, tạo thành phe phái có thế lực mạnh trong xã hội trong suốt một thời gian. Một trong những nữ thủ lĩnh Mông Cổ nổi tiếng nhất là ManduKhai Khatun. Bà là vợ của một hậu duệ Thành Cát Tư Hãn. Bà cũng là chiến binh dũng mãnh, đã cùng chồng chiến đấu tái thống nhất Mông Cổ sau loạn lạc vào khoảng thế kỉ XV. Khatun hơn chồng 13 tuổi và họ có với nhau 8 người con.

2. Hệ thống bưu chính
Người Mông Cổ sống trên thảo nguyên rộng lớn và có lối sống du mục. Họ sống gần gũi với thiên nhiên và thường không ở một nơi cố định. Do có những khác biệt đặc trưng nên hệ thống thư tín để liên lạc giữa các bộ lạc hay giữa mọi người với nhau cũng rất khác biệt. Hệ thống bưu chính của đế quốc Mông Cổ cũ được gọi là Yam hay còn gọi Örtöö có nghĩa là “trạm kiểm soát”.
Nhiều du khách nước ngoài trong đó có Marco Polo đã rất kinh ngạc về độ tin cậy của hệ thống Yam. Đó là một tập hợp lớn các trạm bưu chính, với các sứ giả làm nhiệm vụ chuyên phát thư, báo cáo thông tin tình báo và thông tin quan trọng từ trạm kiểm soát này đến trạm kiểm soát khác.
Mỗi trạm kiểm soát cách nhau 24-60 km và các nhân viên truyền tin thường xuyên giữ liên lạc với nhau. Tại một thời điểm, trên toàn địa bàn của người Mông Cổ có thể có ít nhất 1.400 trạm truyền tin như thế với hơn 50.000 con ngựa được sử dụng để trung chuyển.

3. Chiến thuật

Người Mông Cổ nổi tiếng với những chiến thuật chiến đấu hiệu quả và vô cùng đáng sợ. Để có được thành quả như vậy, họ đã phải rèn luyện, tu dưỡng khả năng chiến đấu của bản thân qua những trận đánh lớn nhỏ. Những thành tích chiến đấu của những chỉ huy nổi tiếng như Alexander Đại Đế hay Hannibal Barca bị đánh giá thấp hơn đội quân Mông Cổ trong thời kì đỉnh cao do Thành Cát Tư Hãn chèo lái.
Người Mông Cổ có hai lối đánh nổi bật đó là bất ngờ đánh nhanh thắng nhanh và giả vờ thua trận, rút chạy rồi bất ngờ quay lại phản công. Cả hai chiến thuật này đều làm cho hàng ngũ địch bị mất tinh thần, rối loạn. Nhiều tướng lĩnh Đông Âu đã bị thất trận trước chiến thuật thứ hai. Người Mông Cổ cũng là bậc tiền bối trong lĩnh vực bao vây và bắt giữ con tin. Sự kết hợp giữa đội quân tinh nhuệ và chiến thuật thông minh đã làm nên nhiều chiến thắng huy hoàng.

4. Con đường tơ lụa

Con đường tơ lụa là tuyến đường giao thương giữa châu Á và châu Âu. Sau khi nhà Đường ở Trung Quốc bị lật đổ, con đường tơ lụa dường như đã rời xa khỏi thời hoàng kim của đế chế Mông Cổ. Tuy nhiên, với sự hùng mạnh của Đế Quốc Nguyên Mông, nó đã dần lấy lại ánh hào quang như thời hoàng kim. Người Mông Cổ đã có được nguồn thu nhập rất lớn từ con đường huyền thoại này.
Phần lớn lộ phí đều do người Mông Cổ thu giữ. Thành Cát Tư Hãn không chỉ sử dụng con đường này để giao thương đến Châu Âu mà còn sử dụng nó để chinh phục thế giới. Ông đã bắt đầu kế hoạch đó với Ả Rập và Thổ Nhĩ Kỳ trước tiên. Khi đó, hầu hết mọi thành phố trên con đường tơ lụa đều bị đội quân Mông Cổ chiếm đóng và chinh phục. Trong thời gian cai trị tuyến đường quan trọng này, Mông Cổ đã có những chính sách phù hợp để duy trì và kích thích phát triển thương mại giữa châu Á và châu Âu.

5. Thời kỳ hòa bình hiếm hoi của đế chế Mông Cổ.

Thỉnh thoảng, sau khi con người trải qua một cuộc chiến tranh khó khăn, kết quả của cuộc chiến sẽ là hòa bình. Pax mongolica là thời kỳ hòa bình hiếm hoi của đế chế Mông Cổ. Đây là thời kỳ của hòa bình và thịnh vượng trong thế kỷ XIII-XIV. Vào thời điểm đó, đội quân Mông Cổ ở thời kỳ đỉnh cao. Đế chế của họ trải dài trên khu vực rộng gần 15 triệu km2, với dân số hơn 100 triệu người.
Sở hữu vùng đất đai rộng lớn cùng với một hệ thống thông tin liên lạc hiệu quả và thương mại quốc tế đang ở giai đoạn bùng nổ, đế chế Mông Cổ vô cùng phát triển và người dân thời kỳ đó đã sống rất hạnh phúc.

6. Vũ khí

Người Mông Cổ sống rong ruổi trên các thảo nguyên rộng lớn nên bạn đồng hành không thể thiếu của họ là những con ngựa. Họ trở nên vô cùng mạnh mẽ khi chiến đấu trên lưng ngựa. Ngựa cũng được coi là một chiến binh, một trong những thứ vũ khí không thể thiếu của người Mông Cổ.
Người Mông Cổ cũng sử dụng nhiều loại vũ khí khác như lưỡi kiếm cong giúp họ chiến đấu thuận lợi ngay cả khi đang trên lưng ngựa hay trên mặt đất. Chùy, búa, dao găm cũng là những vũ khí phổ biến. Vũ khí tấn công từ xa phổ biến nhất chính là cung tên. Trong sử sách, khả năng dùng cung tên của người Mông Cổ cũng đã được công nhận. Họ sử dụng nhiều loại tên nổi tiếng, đặc biệt là tên còi (một loại mũi tên rỗng có khả năng tạo ra âm thanh như tiếng huýt). Loại tên này chủ yếu được người thủ lĩnh sử dụng để ra hiệu trong trận mạc.
Tuy mạnh về phương diện vũ khí nhưng người Mông Cổ không chú ý nhiều đến áo giáp. Mãi đến giai đoạn sau của kỷ nguyên Mông Cổ, áo giáp mới được chiến binh thảo nguyên sử dụng nhiều. Do người Mông Cổ thích sự gọn nhẹ nên vật liệu làm ra chúng thường bằng da ngựa đã ngâm trong nước tiểu. Thỉnh thoảng, họ cũng làm bộ áo bọc thép khoác lên những chiến mã.

7. Lòng khoan dung

Trong lịch sử đã ghi nhận quân Mông là một trong những đội quân man rợ và thiện chiến nhất. Điều này hoàn toàn đúng. Họ chiến đấu vô cùng tàn bạo khi giáp mặt kẻ địch ở sa trường. Họ hiếm khi nhượng bộ kẻ địch và thường cướp bóc, giết người trong những chuyến hành quân.
Tuy nhiên sau khi chinh phục được, đối với những thành phố hay quốc gia thuộc quyền cai trị của họ thì lãnh đạo Mông Cổ lại có những chính sách khá hợp lý. Người Mông Cổ cho rằng họ phải chấp nhận những thói quen và tôn trọng sự khác biệt nên thường không bức ép thay đổi tôn giáo hay thói quen văn hóa ở vùng đất chiếm lĩnh được. Những chính sách cai trị tích cực như giảm thuế cũng được áp dụng.

8. Tatar

Người Mông Cổ đôi khi còn được gọi là người Tatar. Cái tên này có xuất xứ từ việc người Mông Cổ tự gọi chính mình là Tatar. Tuy nhiên kẻ thù của họ nhận ra rằng cái tên này nghe gần giống từ "Tartarus" – thần địa ngục trong La Mã cổ đại. Vì vậy, họ đã gọi người Mông Cổ là Tatar có nghĩa là quỷ từ địa ngục của thần Tartarus.

Cưỡi ngựa long rong ở Mông Cổ

Tác giả: Nguyễn Thiên Ngân

Sau khi đi Mông Cổ về, tôi sinh ra một ảo tưởng: phen này mình vào Phú Thọ đua thì thiên hạ cứ gọi là lác mắt.

Và tôi đã thắng. Niềm khát khao được cưỡi ngựa tung vó trên những thảo nguyên mùa hạ ngập tràn hoa cỏ đã giúp tôi chiến thắng nỗi sợ.

Chúng tôi đi road trip dài 14 ngày theo lộ trình sau: từ Ulaanbaatar lên miền Bắc, rồi quay về vùng trung tâm. Trong đó, có bốn ngày chúng tôi sẽ được làm cao bồi cưỡi ngựa. Vừa đọc lộ trình, cặp vợ chồng già người Đức, bạn đồng hành của chúng tôi đã tái xanh mặt mũi nói với anh hướng dẫn viên “Liệu tụi tao có thể đi xe thay vì đi ngựa được không?” Anh chàng ok liên tục, như đã quá quen với chuyện chưa đánh đã lùi của du khách này rồi. Tôi cũng có phần run rẩy khi nghĩ đến bốn ngày trời di chuyển bằng ngựa, nhưng chẳng lẽ tuổi mới đôi mươi lại tỏ ra hốt hoảng như hai cô chú kia?

Làm kỵ sĩ băng qua khu rừng thần tiên

Chặng đầu tiên, chúng tôi đi ngựa ở rừng quốc gia Khuvsgol. Nếu bạn hỏi nó ở đâu, tôi sẽ nói đó là một cái rừng đầy thông Siberian, trong rừng có một hồ lớn cũng tên là Khuvsgol nốt, và vào mùa đông, nước hồ sẽ đóng băng. Chỉ cần chạy xe èn èn qua đó vài chục cây số, bạn sẽ đến được hồ Baikal của Nga. Trên thực tế, hồ Khuvsgol và hồ Baikal là hai hồ sinh đôi, chỉ có điều ông anh Baikal “ham ăn” nên to béo hơn một chút.

Tôi nín thở nhìn người ta buộc những miếng đệm cưỡi ngựa vào chân mình, rồi lại nhìn mấy con ngựa đang nhởn nhơ ăn cỏ cột ở bờ rào gỗ, lòng không khỏi lo lắng. Đêm qua tôi đã đi vòng quanh khu lán trại hỏi thăm về vụ đi ngựa. Tôi bắt được một cô gái người Canada bèn hỏi “Ê đi ngựa có khó không?” Cô nàng bảo “Dễ ẹc”. Khi cô nàng quay đi, bạn đồng hành của cô ta cho tôi hay “Đừng tin nó, ở Canada nó là huấn luyện viên cưỡi ngựa đó”. Và tôi thấy mình tuyệt vọng thiệt rồi.

Nhưng ngay sau 15 phút leo lên ngựa thì tôi biết là mình sai lầm. Tôi nghĩ mình có thể cưỡi ngựa cả tháng cũng được. Ban đầu, phải ngồi lắt lẻo trên một “cái con” cao lênh khênh và chỉ đi theo ý của nó thì hơi… rùng rợn. Nhưng giống như chơi patin ấy, một khi đã nắm quy luật, đã đi được rồi, thì bạn sẽ chẳng bao giờ té nữa. Và bây giờ, chúng tôi chỉ việc ngắm trời mây, tận hưởng khu rừng thông Siberian mùa hè ngập tràn hoa cỏ, thi thoảng có con suối trong veo vắt ngang, trời thì lạnh tê và không khí trong như lọc.

Ngựa ơi, làm bạn với mình nhé!

Có vài quy luật như thế này. Hãy nói “Trrrrrru” và ghì cương khi bạn muốn đứng lại, và “Chuuu” cộng với thúc cương và chân vào hông ngựa khi bạn muốn đi. Đối với một số bạn ngựa cứng đầu lười biếng thì cần có thêm một cây roi da quất vào mông để làm động lực. Còn nếu bạn muốn phi nước đại thì cứ miệng hô, tay quất liên tục cho đến khi con ngựa chạy như gắn tên lửa thì thôi. Đó là với ngựa Mông Cổ, tôi không biết ngựa Việt Nam có hiểu thuật ngữ chuyên môn đó không, hay có một hệ thống tín hiệu khác.

Không bao giờ được xuống ngựa bên trái hay xớ rớ đứng sau mông ngựa nếu không muốn bị nó đá cho một phát kỷ niệm. Luôn phải cực kỳ “đanh đá” với nó, hãy là người cưỡi nó, đừng để nó cưỡi bạn.

Đừng ngại cho con ngựa xinh của bạn vài phát vào mông nếu nó cứ đi ba bước lại vục đầu ăn cỏ một lần, tè một phát, ị một phát. Cái trò này sẽ lặp lại mãi mãi và bạn sẽ không bao giờ đến nơi đâu, nếu bạn cứ nhượng bộ nó hoài. Tôi ban đầu rất cưng chú ngựa trắng mắt hiền của mình, nhưng sau chú này làm tới quá, kết quả là tôi bị tụt lại sau chót vì nó cứ ăn, ăn và ăn. Thế là anh nài ngựa đưa tôi một cây roi, và ra hiệu tôi phải ra tay trừng trị. Sự việc được cải thiện ngay sau đó.

Không bao giờ cởi đồ trên mình ngựa, thứ nhất là để tránh làm mất mỹ quan (hahaha, tôi đùa đấy), thứ hai là ngựa rất ghét những tiếng sột soạt, và nó có thể nổi điên lên hất bạn xuống đất chỉ vì bạn lỡ dại cởi áo khoác và tiếng áo cọ cọ làm nó bực bội. Tôi nghe anh hướng dẫn viên kể chuyện có một du khách Nhật đã bị gãy cột sống vì con ngựa cô ta cưỡi lồng lên hoảng sợ. Và thứ làm nó hoảng sợ là… một cái bọc ni-lông bay ngang.

Suýt ngã ngựa, và thực sự ngã ngựa

Tôi nín thở nhìn người ta buộc những miếng đệm cưỡi ngựa vào chân mình, rồi lại nhìn mấy con ngựa đang nhởn nhơ ăn cỏ cột ở bờ rào gỗ, lòng không khỏi lo lắng.
Người ta nói “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” rất có lý do. Ngựa là một loài rất bầy đàn. Nếu một con đi chậm, cả bọn sẽ đi chậm. Một con phi nước đại, những con còn lại sẽ đua theo.

Ngày cuối cùng của chặng cưỡi ngựa ở Khuvsgol. Khi đi qua một đồng lầy, tôi, như thường lệ, vẫn đi thong dong một mình, thậm chí còn hơi “lỏng buông tay khấu” say sưa nhìn cảnh vật, chả thèm để ý một sự chung quanh. Tự nhiên nghe uỳnh một cái, tôi thấy mình bị hất xuống đất, rồi khi tôi ý thức được cảnh huống của mình, thì thật là bi đát vô cùng: thân tôi, gồm lưng và hai cánh tay đang bị kéo lê dưới đất, một chân chới với trên trời, một chân còn lại thì mắc trên cái ngàm để chân của ngựa, và con ngựa của tôi thì chạy lòng vòng như điên, kéo lê tôi xềnh xệch. Tôi chỉ còn biết đưa tay ôm lấy đầu với ý nghĩ duy nhất: “Mình chết chắc rồi”.

Đến khi anh nài ngựa xông ra dừng được con ngựa lại, tôi thấy mọi người mặt mày tái mét đứng nhìn tôi một lúc rồi mới như sực tỉnh, chạy lại hỏi han. Người ta gỡ miếng cáp buộc quanh chân tôi ra, nắn bóp xem thử có gãy xương không. Anh hướng dẫn viên kiên quyết không cho đi ngựa nữa, gọi xe đến bìa rừng đón tôi về trạm nghỉ.

Hoá ra có một con chó hoang ở đâu nhảy xổ vào cắn ngựa của tôi. Và con ngựa hoảng loạn, lồng lên, trong khi tôi đang quá chủ quan thả lỏng dây cương. Chân tôi lại móc quá sâu trong ngàm để chân. Cùng một lúc, tôi mắc hai lỗi cơ bản của người cưỡi ngựa. Vết sẹo hình cái ngàm ngựa trên ống quyển không bao giờ mờ nhắc tôi mãi về điều đó.

Và lại lên ngựa…

Sau cú sốc ấy, phần vì quá sợ hãi, phần vì quá thất vọng về mình, tôi không nghĩ mình dám leo lên ngựa lần nữa. Nhưng khi đến hồ Terkhii, một cái hồ núi lửa mênh mông ở miền trung tâm, nơi có bầy hải âu chao liệng, tôi không thể cầm lòng. Và tôi lại lên ngựa. Mọi người hỏi tôi có chắc không. Tôi gật đầu. Đi qua những bãi đá mắcma nhọn hoắt, cảm giác bị kéo lê trên đất hiện về khiến tôi sợ đến đờ người. Nhưng tôi nghĩ đó là một nỗi sợ phải vượt qua trong đời. Một khi đã mắc những sai lầm, người ta sẽ giữ cho mình không được quyền tái phạm nữa, hoặc họ sẽ phải trả giá.

Và tôi đã thắng. Niềm khát khao được cưỡi ngựa tung vó trên những thảo nguyên mùa hạ ngập tràn hoa cỏ đã giúp tôi chiến thắng nỗi sợ. Giờ tôi vẫn nghĩ mình có thể vào Phú Thọ đua ngựa cho người ta lác mắt. Buồn cười không?

Mông Cổ du ký: Hoa trên thảo nguyên

Buổi sáng đánh răng và rửa mặt từ chai nước suối giữa đồng cỏ mênh mông cũng là một trải nghiệm. Cả khu trại khoảng hơn ba chục lều chỉ có hai phòng vệ sinh nữ, hai phòng vệ sinh nam và hai phòng tắm. Điện không có và nước chảy ri rỉ từ vòi...

Thời gian đã trôi qua, vật đổi sao dời, chỉ có thảo nguyên ngàn đời vẫn thế. Không khí buổi sáng tươi mát đầy mùi hơi nước như đang đầu mùa xuân. Chẳng còn thấy bóng dáng gì của cái lạnh đêm qua. Theo chương trình, sáng nay chúng tôi sẽ vẽ trên thảo nguyên, ở một nơi vừa có đồng cỏ mênh mông vừa có những vách đá sừng sững và đây đó vài gốc cây thân trắng vươn mình đẹp như tranh thủy mặc.

Nhìn từ trên xuống, chúng giống như những cánh rừng thu nhỏ: rừng già nhiệt đới, rừng thu ôn đới, rừng taiga, và cả những rừng xương rồng trên sa mạc. Hoa mọc lẫn trong cỏ, khiến cả thảo nguyên nhìn từ xa là một màu xanh với nhiều sắc độ khác nhau. Dưới ánh mặt trời của buổi trưa đã trở thành mùa hè, những sắc xanh ấy như được phủ thêm một lớp dầu bóng, lung linh trong hòa sắc tuyệt diệu mà chỉ có họa sĩ mẹ thiên nhiên mới vẽ được.



Khi tới gần, bức tranh ấy đột nhiên biến đổi hoàn toàn. Nó trở nên sống động đến bất ngờ và mở ra cả một thế giới hoàn toàn khác. Hoa cúc dại đủ màu: trắng, vàng, hồng,tím. Hoa bồ công anh trắng và tím, tròn xoe, xoay trong gió. Hoa Edelweiss - một loài hoa dại đang được bảo tồn tại châu Âu, trắng ngà như ngôi sao năm cánh bước ra từ truyện cổ tích. Hoa tím đậm như violet, hoa chuông tím nhạt, hoa vàng li ti như hoa cải trên những cánh đồng Hà Giang...

Vô vàn những bông thạch thảo trắng và hồng nhạt như những ngôi sao rớt lại từ trời đêm phơi mình trên cỏ. Hoa theo từng bước chân, hoa dẫn người và người theo hoa trên một con đường bất tận. Cào cào, châu chấu, cánh cam xanh, những loài bọ không biết tên, bay rào rào theo mỗi bước chân. Không còn ranh giới, không còn hiện thực, chỉ còn một thế giới hư ảo, thế giới của cỏ hoa giữa lưng chừng trời đất ngập tràn một mùi hương đồng nội, mùi nắng và mùi gió, đong đưa...

Có lẽ cũng phải có tới hàng trăm loài cỏ khác nhau, rất nhiều loại có mùi thơm đặc biệt và được dân du mục dùng làm thuốc chữa bệnh. Cứ lần theo lối đi của hoa, tôi mê mải như một cánh bướm đi tìm một bông hoa xanh. Bạn đã bao giờ nghe câu chuyện đó chưa? Người ta nói, nếu như bạn đi trên thảo nguyên và tìm thấy một bông hoa mang màu xanh nhạt của bầu trời (blue) hay màu xanh đậm như biển cả, bạn sẽ là người vô cùng may mắn và hạnh phúc sẽ tới với bạn. Câu chuyện cổ tích từ thời thơ bé, giờ đây đột nhiên trở lại và thành một niềm mong ước khi người ta đứng giữa bao la thảo nguyên.



Đua ngựa, môn thể thao không thể thiếu ở thảo nguyên

Nhưng có lẽ, chưa bao giờ tôi nghĩ sẽ lại được gặp những “người bạn” châu Âu của mình tại đẩt nước xa xôi này. “Người tình” chung thủy của tôi trong hội họa, hoa poppy/klatschmohn/ anh túc - khoe sắc vàng mong manh rực rỡ trong nắng gió thảo nguyên. Anh túc vàng nơi đây khiêm nhường và nhỏ nhắn hơn nhiều và cũng không mọc thành cánh đồng như ở châu Âu, nhưng không vì thế mà mất đi vẻ đẹp đặc biệt vốn có của chúng. Có một cảm xúc thật khác lạ khi nhìn và chụp những cánh hoa màu vàng trong suốt, mỏng hơn những cánh bướm rung rinh trên thảo nguyên, giữa bạt ngàn hoa cỏ.

Đặc biệt nhất vẫn là lavender/oải hương. Những cánh hoa tím ngát của xứ Florence, Tuscany đã được ngọn gió xa xưa nào mang tới vùng thảo nguyên bao la này? Hoa oải hương nơi đây mang dáng vẻ nhỏ nhắn, mềm mại và mọc xen kẽ trong những loại cỏ và hoa dại khác. Mùa oải hương nở rộ đã qua cách đây một tuần, nên trên cánh đồng cỏ chỉ còn lại những thân oải hương màu xám xanh. Ở châu Âu người ta cũng thường thu hoạch chúng để làm ra nhũng chai tinh dầu và nước hoa đầy mê hoặc.

Tôi tin rằng, ai đã một lần vò những thân oải hương trong tay, sẽ không bao giờ có thể quên được mùi hương của loài hoa ấy. Ở vùng thảo nguyên này, khắp nơi ngập tràn những thân oải hương nghiêng nghiêng trong gió.

Và thốt nhiên tôi thấy mình đang vùi mình trong cỏ giữa muôn loài hoa dại. Bên tôi, một vạt hoa xanh, phải, màu xanh da trời nhẹ nhàng của những bông forget me not, và mùi oải hương tràn ngập không gian nắng thảo nguyên. Những cánh hoa xanh bầu tròn hiền hậu như những đôi mắt xanh trong trẻo, đang ngước nhìn tôi.

THỜI TIẾT THẤT THƯỜNG

Để đến được Mông Cổ, khách Việt cần phải xin visa tại Tổng lãnh sự quán Mông Cổ tại TP.HCM hoặc Đại sứ quán Mông Cổ tại Hà Nội. Đơn xin thị thực và thông tin có thể tìm thấy trên mạng. Thời điểm thích hợp nhất để đi du lịch tại Mông Cổ là từ tháng 5 đến đầu tháng 10. Dù vậy, nhiệt độ có thể thay đổi thất thường, nhất là ở vùng sa mạc và thảo nguyên. Vì thế cần mang quần áo và vật dụng cá nhân thích hợp. Nếu dự định ngủ lều trên thảo nguyên, bạn nên chuẩn bị tinh thần cho việc thiếu nước, hoặc thậm chi không có WC, không có lò sưởi khi nhiệt độ xuống đến âm 2 - 3 độ ngay cả vào mùa Hè. Du lịch ở Mông cổ chưa quá thuận tiện để có thể đi “bụi” hay “phượt“ dễ dàng như ở Việt Nam, nhất là không nên mạo hiểm đi một mình vào những vùng thảo nguyên mênh mông hay sa mạc hoang vắng. Trở ngại lớn nhất là ngôn ngữ, vì ít người Mông Cổ nói tiếng Anh. Nếu biết tiếng Nga, mọi việc có thể dễ dàng hơn.

Cảm xúc phượt Mông Cổ

Thảo nguyên hoang dã đẹp tới mức làm choáng ngợp bất cứ ai đặt chân đến, nhưng thiên nhiên cũng hoang dại tới mức thử thách tất cả lòng can đảm của con người. Và tất nhiên, là cả những câu chuyện về con người ở xứ sở của Thành Cát Tư Hãn - Mông Cổ!

Đã có khá nhiều người Việt viễn du tới Mông Cổ, đi một mình hoặc đi với nhóm bạn. Về Việt Nam, thông tin hướng dẫn nhau đi Mông Cổ tràn ngập các trang mạng về du lịch. Những câu chuyện, những trải nghiệm và những bức ảnh của họ đã làm sôi sục bất cứ ai có trong mình chút máu phiêu lưu.


Tượng Thành Cát Tư Hãn ở Mông Cổ.

Tết và chùa chiền

Có nhiều cách đi từ Việt Nam sang Mông Cổ. Ít tiền, nhiều thời gian thì đi tàu, ô tô qua Trung Quốc, Trung Á… Nhiều tiền thì đi máy bay (tất cả đều là bay quá cảnh qua Bắc Kinh, Hongkong hay Seoul, tuỳ hãng máy bay).

Nếu đi đường bộ, du khách có thể mất cả chục ngày chen chúc trên các toa tàu chạy xuyên Trung Quốc. Và cuối cùng, chạm ngõ Mông Cổ là dòng chữ “Welcome to Mongolian”- chào đón tới Mông Cổ. Còn nếu đi máy bay, sân bay của thủ đô Ulanbataar sẽ đón du khách trong nắng vàng với cái lạnh 5-6 độ (và về đêm là 3-4 độ âm).

Ngày Tết cổ truyền âm lịch ở Mông Cổ được gọi là Tết Tsagaan Sar, hoặc Tết Tháng Trắng. Ngày tết này được tính theo lịch Tây Tạng và cũng gần ngày Tết Nguyên đán ở Việt Nam. Đối với người Mông Cổ, Tsagaan Sar báo hiệu kết thúc một mùa đông dài và lạnh lẽo để đón chào một mùa xuân mới và tụ họp sum vầy với nhau (ý nghĩa giống hệt Tết Nguyên đán cổ truyền ở Việt Nam). Bữa cơm ngày Tết của họ cũng đầy các món ăn truyền thống, ví dụ như món cơm và sữa đông, cơm với nho khô, thịt cừu nướng, thịt ngựa, bánh buuz, sữa ngựa lên men hoặc rượu vodka trộn sữa.


Chợ ở Mông Cổ bán món đồ đặc trưng là ống khói bếp lò.

Nhưng ít người Việt Nam “dám” đi Mông Cổ vào thời điểm này bởi cái lạnh lẽo tới âm 10, âm 20 độ không dễ gì chịu được mà chủ yếu đi vào tháng 3, 5, khi thời tiết ấm hơn.

Điểm đến hút khách du lịch nhất khi tới nơi đây là chùa chiền, thiền viện. Chùa Wuta Pagoda, ngôi chùa từ thời Càn Long, lại xây dựng theo kiến trúc Ấn Độ, nhưng lại có nhiều ảnh hưởng Phật giáo Tây Tạng vươn lên uy nghi trong nắng chiều. Ngôi chùa đầy những phù điêu chạm trổ tinh xảo của chùa, những phiến đá thiên văn tinh xảo của người Mông Cổ xưa...

Rồi Thiền viện Gandan Khiid - một trong những thiền viện lớn nhất Mông Cổ - nằm ở tỉnh Bayankhongor. Người Mông Cổ tôn sùng Phật giáo, nhưng vì đây là đất nước của "độc lập và tự do" - theo tôn chỉ đã được đề cao trong quốc huy mới và trên quốc kỳ, nên thiền viện này là nơi tu luyện của cả sư thầy và Lạt ma, với trên 10.000 người.

Cưỡi ngựa trên thảo nguyên

Sau chùa chiền, thảo nguyên là điểm đến được yêu thích nhất. Trong đó có thảo nguyên Xilamuren. Đây là một thảo nguyên rộng lớn, các ger camp (những khu lều Mông Cổ) trong các trang trại lọt thỏm giữa mênh mông gió. Ngoài khu trung tâm giống như một thị trấn nhỏ, thì các trang trại nằm rải rác, nhìn có vẻ gần nhưng đi thì khá xa.


Ở đây cũng nhiều “cò”. Khi thấy có khách từ xa tới khu trung tâm là “cò” cũng nhộn nhịp lao đến mời khách về các trang trại và nhiệt tình dẫn khách vào thảo nguyên. Đường đi ở đây, từ lều nọ sang lều kia, từ trang trại nọ sang trang trại kia mất cả chục km. Đồng cỏ khô, ngựa và hoa dại trong nắng chiều hoàng hôn khiến cho Xilamuren có vẻ đẹp không cưỡng lại được. Nhưng chỉ tới tối là nhiều khi có dông, mưa đá, gió quất ràn rạt và gào thét thê lương.

Nơi được khách Việt Nam chọn ở nhiều nhất (chỉ vì một lý do đơn giản: có nhà vệ sinh) là Xilamuren Resort. Lều ở đây có nhà vệ sinh, nhưng không có lò sưởi, giá 130 tougul/lều/6 người. Dịch vụ đặt ăn ở đây cũng khá… oái oăm khi mà thịt cừu phải… đặt nguyên con. Nhưng giá cả so với Việt Nam cũng dễ chịu: Khoảng 6 triệu đồng một bữa thịt cừu quay nguyên con tưng bừng.
Du lịch Mông Cổ thường đồng nghĩa với những chuyến đi các miền. Du khách thuê ô tô có tài xế lái rồi du hí các hành trình chính gồm: Miền Bắc và Ulaanbataar 14 ngày; miền Đông (3-5 ngày); miền Tây 25 ngày; sa mạc Gobi 9 ngày. Đã từng có nhiều du khách Việt Nam sang Mông Cổ đi các điểm trên bằng... xe máy.

Hầu hết du khách Việt đã tới Mông Cổ thường thuê hẳn một chiếc Jeep Nhật để vi vu sang miền Đông (khu vực Khatgal) cắm trại và đi horse-riding tour (tour cưỡi ngựa) quanh khu hồ Khovgol và Terkhii.

Chuyến cưỡi ngựa từ Khatgal đến hồ Khovgol, khoảng hơn 20km có lẽ là chuyến đi ấn tượng với bất cứ du khách nào bởi được cưỡi ngựa thong dong trên đồng cỏ đầy hoa dại, xuyên qua khu rừng thông rậm rạp có những bụi hoa lấp ló đủ sắc màu, nghỉ chân ở một trảng cỏ nở rợp hoa trắng, hoa dại nhìn không chán mắt. Ở chốn này, mùi hoa dại và cỏ rừng thơm mát và say lòng người.

Thảo nguyên mênh mông nên đâu đâu cũng là đường. Cảnh vật trải dài như vô tận, du khách chỉ nhận biết được đường đi nhờ vệt bánh xe để lại trên cỏ, tạo thành những đường uốn lượn đầy ngẫu hứng. Và khi đã đi Mông Cổ, đã phóng tầm mắt trên thảo nguyên, được trải nghiệm hết cuộc sống của dân du mục trong cái lạnh lẽo khắc nghiệt, hầu như ai cũng cảm thấy cuộc sống đầy ý nghĩa, vơi bớt tham, sân, si trong cõi đời.

Mông Cổ được biết đến là quốc gia sở hữu những thảo nguyên trải dài ngút ngàn. Đi dọc thảo nguyên, thỉnh thoảng bạn sẽ bắt gặp những ngôi nhà truyền thống (ger) của người dân du mục giữa những thảm hoa dại rực rỡ, những đàn bò yak, dê, cừu, ngựa… hàng nghìn con như những chấm nhỏ giữa mênh mông.


Một ngày mới được bắt đầu với những tia nắng ấm áp trên thảo nguyên

Người dân Mông Cổ rất hiếu khách, dù bạn tình cờ ghé thăm, bạn cũng sẽ được mời trà sữa và các loại bánh, bơ, sữa chua khô. Miền bắc Mông Cổ có đặc sản là các sản phẩm làm từ sữa bò yak, miền trung có đặc sản là sữa ngựa mà khi lên men thành bia thường được dùng vào dịp tết, và miền Nam có sữa lạc đà.

Phương tiện giao thông chính ở Mông Cổ là ô tô, mỗi gia đình đều có một chiếc ô tô. Nên việc "đi bụi" có lẽ là cách du lịch khá phổ biến ở Mông Cổ. Suốt dọc đường, ở đâu cũng tìm thấy chỗ có thể cắm trại được.

Những điểm yêu thích được chọn thường là ven hồ, dọc sông, suối, nước sông, hồ. Cắm trại ở Mông Cổ thực sự an toàn, cảm giác dừng chân đâu đó giữa thảo nguyên trong ánh hoàng hôn, ở trong chiếc lều giữa thảo nguyên mênh mông không điện, không internet, dưới bầu trời đầy trăng sao nghe sóng vỗ hay suối chảy róc rách, cùng nấu vài món ăn đơn giản, cùng thức dậy khi ánh mặt trời qua khỏi ngọn núi nhấm nháp ly cà phê thật là tuyệt vời.


Đi qua những thảo nguyên ngập tràn cừu bò dê ngựa

 

Qua những ngôi nhà truyền thống của người dân Mông Cổ


Những cánh rừng thông trải dài vài trăm km 


Những khung cảnh thanh bình trải ngút ngàn tưởng như vô tận


Một gian bếp của người Mông Cổ


Bữa sáng


Một chàng trai Mông Cổ ăn mặc rất đẹp chuẩn bị đi làm


Công việc đầu tiên của anh là bổ củi 

 

Sau đó chàng sẽ đi chăn cừu bò, dê, ngựa


Người phụ nữ chuẩn bị vắt sữa bò


Bò con sau khi được uống sữa và bú mẹ thì bò mẹ mới bị vắt sữa 


Một gia đình Mông Cổ đang chuyển nhà 

Một trong những lối sống đặc trưng ở Mông Cổ là du mục. Những người dân Mông Cổ chủ yếu di cư theo mùa và theo nhu cầu tìm nơi chăn thả động vật phù hợp, tránh thời tiết khắc nghiệt. Khi mùa đông về, nhiệt độ thường thấp hơn -30oC, người dân sẽ chuyển xuống chân núi. Và khi mùa hè đến, họ sẽ chuyển đến vùng gần sông, hồ, suối


Trong buổi chuyển nhà thường có mổ cừu, dê

Thêm chú thích

Một loại trà được pha trong thau nhôm


Những đứa trẻ Mông Cổ cưỡi cừu giống như những đứa trẻ ở miền quê Việt Nam cưỡi trâu, cưỡi bò

Hoàng hôn bình yên trên thảo nguyên

Thứ Hai, 24 tháng 8, 2015

Khám phá Ulan Bator và “chợ đen” Naran Tuul ở Mông Cổ

4 giờ sáng trên tàu lửa Trans-Siberian, ánh mắt trời chói lóa đã đánh thức tôi. Tôi trở mình và cố ngủ thêm một chút. Chỉ một vài giờ nữa là đến Mông Cổ, tôi cùng Christina – người bạn Mông Cổ tôi vừa quen thức dậy và ăn sáng. Tại khu vực nhà hàng, họ đưa cho chúng tôi một thực đơn đầy những món ăn.

Đến lúc chúng tôi quyết định gọi món, họ lại thông báo đa số thức ăn đã hết sạch, chỉ còn lại 3 món mà thôi. Tôi nhíu mày tự hỏi, tại sao họ không thông báo điều này cách đây 15 phút?

Thế là tôi đành gọi gan cừu, bò, trứng cùng với trà sữa và cà phê. Sau khi dùng bữa, tôi nhận thấy thức ăn khá tầm thường. Trở về khoang khách, tôi trông thấy người bạn Trung Quốc đang ăn mì gói. Tôi bất chợt nghĩ, có lẽ lựa chọn này còn tốt hơn ăn ở nhà hàng của tàu.

Đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, khung cảnh đồng bằng xanh ngắt và bầu trời trong veo khiến tôi cảm thấy bình yên đến lạ. Thấp thoáng, tôi còn thấy cả những đàn cừu, đàn ngựa đang ung dung gặm cỏ.



Suốt hành trình vào đất Mông Cổ, tôi chỉ thấy một vài khu dân cư nhỏ nằm rải rác. Đáng ngạc nhiên hơn, tôi chẳng thấy sự hiện diện của bất cứ một sa mạc nào. Thời gian dần trôi qua, tôi thậm chí không hề biết rằng, mình đã ở trong địa phận của thủ đô Ulan Bator.



Tôi đã được chứng kiến cảnh đoàn tụ cảm động của Tseren – một người bạn đồng hành trên chuyến tàu – cùng vợ và con gái. Sau đó, chúng tôi nói lời tạm biệt và bắt đầu đi tìm kiếm khách sạn để nghỉ ngơi. Tôi cùng bạn của mình đã nhập bọn với một nhóm du khách đang đi đến Sunpath Hostel. Sau khi kiểm tra kĩ càng cơ sở vật chất, chúng tôi quyết định ở lại đây. Ngoài ra, chúng tôi cũng đăng kí tham gia tour do nhà khách tổ chức.



Đi cùng chúng tôi là những khách du lịch đủ độ tuổi đến từ nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới (Mỹ, Canada, Úc, các nước châu Âu…). Tôi nghe được mọi người bàn bạc về chuyện tham quan “chợ đen” – nơi sẽ đóng cửa trong vòng một tuần kể từ ngày mai nhân dịp quốc lễ. Sau một hồi suy nghĩ, tôi và người bạn đi cùng quyết định theo họ đến đó. Giao thông ở đây không tốt lắm nên chúng tôi mất khá nhiều thời gian cho việc di chuyển, nhưng có lẽ nhờ vậy mà chúng tôi có dịp trò chuyện với nhau nhiều hơn.


Chợ đen (Chợ Naran Tuul)

Chợ Naran Tuul hay còn gọi là “chợ đen” là một trong những khu chợ lớn nhất ở châu Á. Một bên là những tòa nhà to lớn, bên còn lại là mê cung dày đặc những quầy hàng cung cấp đủ loại mặt hàng từ vải dệt cho đến thực phẩm. Ở đây luôn đông đúc người mua kẻ bán, đôi lúc những đám đông bu kín có thể khiến bạn ngạt thở.



Tình trạng móc túi ở nơi này cũng cực kì nghiêm trọng. Vừa bước chân vào chợ chừng vài phút là tôi đã suýt bị mất ví. Chuyện là lúc tôi đang bước đi theo dòng người, tôi bất chợt cảm giác ngón tay ai đó đang thò vào túi của mình. Tôi lập tức dừng lại và giữ chặt túi. Giả sử, tôi phản ứng chậm vài giây thì ắt hẳn túi tiền đã “không cánh mà bay”. Tôi liền cảnh báo cho mọi người trong nhóm. Rõ ràng, chuyện trộm cắp xảy ra như-cơm-bữa ở khu vực này.



Tôi và các bạn tiếp tục khám phá chợ đen, tìm kiếm lông cáo, lạc đà, bò Tây Tạng, thắt lưng của người Mông Cổ, quần áo, túi xách và trang sức. Sau nhiều giờ mua sắm, tôi và Christina thu được kha khá chiến lợi phẩm như khăn lông lạc đà, tất, những chiếc áo thun Mông Cổ in hình chữ Vạn. Trước khi rời khỏi chợ, chúng tôi còn tranh thủ ghé qua hàng trái cây tươi.

Việc đón taxi ở Ulan Bator thật không dễ dàng chút nào. Những tài xế sẽ dừng lại và lập tức rời đi nếu họ nhận thấy bạn không thể nói tiếng Mông Cổ hoặc địa điểm mà bạn muốn đến không thuận tiện cho họ. Đặc biệt, chẳng có một dấu hiệu nào giúp bạn nhận biết đâu là taxi. Bất cứ xe hơi trên đường nào cũng có thể là taxi. Đây là điều thuộc về văn hóa địa phương. Ở đây, người ta sẽ sẵn sàng làm tài xế cho bạn nếu bạn có thể thỏa thuận được giá cả với họ. Nói theo một cách khác, bạn có thể sẽ được quá giang bất cứ lúc nào.



Về đến nhà khách, chúng tôi để lại đồ đạc đã mua được và bắt đầu tìm địa điểm dùng bữa tối. Một lần nữa, tôi lại rơi vào tình trạng, nhà hàng không phục vụ thức ăn có trong thực đơn. Thế là tôi liền chỉ vào món ăn mà bàn kế bên đang dùng, người phục vụ gật đầu. Lát sau, anh ấy mang ra bàn một đĩa bánh bao chiên đầy hành tây và thịt cừu cùng một ít sữa ấm có vị mặn. Bữa ăn này hoàn toàn khiến tôi hài lòng.



Dùng bữa tối xong, tôi và những người bạn ghé vào một cửa hàng để mua bia và kem. Chúng tôi trò chuyện một lát và sau đó đi dạo xung quanh. Chúng tôi không đi quá xa bởi vì buổi tối ở đây khá lạnh.

Thế là trải qua một ngày tuyệt vời ở Ulan Bator. Vào ngày mai, chúng tôi lại tiếp tục hành trình của mình.

Mùa đông trên thảo nguyên Mông Cổ

Mùa đông ở Mông Cổ thường dài và khắc nghiệt, với nền nhiệt độ ở thường dao động từ âm 20 ° C đến âm 45 ° C. Tuy vậy với khách du lịch đến với vùng đất lạnh giá này thì đây quả là một trải nghiệm tuyệt vời.



​Đất nước Mông Cổ nổi tiếng với cuộc sống của những người dân du mục, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt nhưng đây lại là một địa điểm tuyệt vời để chúng ta khám phá (Ảnh: boredpanda)

​​Hầu hết khách du lịch đến với Mông Cổ vào mùa hè để tận hưởng không khí dễ chịu với nền nhiệt độ không quá thấp cũng không quá cao và để xem phong cảnh rộng lớn của đất nước nổi tiếng với nền văn hóa du mục.​ ​ ​ ​​ ​ ​​ ​ ​ ​

Mùa đông ở Mông Cổ tuyết không rơi quá nhiều, nhưng trong suốt những tháng mùa đông nhiệt độ không bao giờ ​lên trên 0 độ, tuyết sẽ bao phủ khắp nơi cho đến tận mùa hè năm sau​ 

​​ ​​​​​​​​
​ ​ ​ ​​​ ​ ​​ ​ ​ ​​ ​​ ​ ​ ​ ​​​ ​ ​​ ​ ​ ​​ ​​ ​ ​ ​ ​​​ ​ ​​ ​ ​ ​​
Địa lý Mông Cổ đa dạng với Sa mạc Gobi ở phía nam và các vùng núi lạnh ở phía bắc và phía tây, đa phần lãnh thổ Mông Cổ gồm các thảo nguyên


Đỉnh cao nhất tại Mông Cổ là Đỉnh Khüiten thuộc khối núi Tavan bogd ở cực tây với độ cao 4,374m
​​ ​​​​​​​​
​ ​​ ​ ​ ​ ​​​ ​ ​​ ​ ​ ​
​​​Phần lớn đất đai của Mông Cổ ​không thể trồng trọt do khô cằn và thời tiết khắc nghiệt​ 

​​ ​​​​​​​​
​ ​​ ​ ​ ​ ​​​ ​ ​​ ​ ​ ​
Người dân của đất nước Mông Cổ với đặc trưng là cuộc sống du mục, họ di cư khắp nơi ​chủ yếu để tìm những nơi có thời tiết thuận lợi và có thể tìm thức ăn cho gia súc theo mùa​ 

​​ ​​​​​​​​
​ ​​ ​ ​ ​ ​​​ ​ ​​ ​ ​ ​
Bò là loài vật nuôi phổ biến ở đất nước này, chúng có bộ lông dày và có thể chịu đựng được thời tiết khắc nghiệt nơi đây​ 

​​ ​​​​​​​​
​ ​​ ​ ​ ​ ​​​ ​ ​​ ​ ​ ​
Một người phụ nữ ủ trà sữa truyền thống của người Mông Cổ, chúng thường được làm bằng nước, sữa, trà, và muối. Đó là một trong những đồ uống phổ biến nhất ở Mông Cổ, đặc biệt là vào mùa đông, và để phục vụ cho tất cả các vị khách khi họ đến nhà.​ 

​​ ​​​​​​​​
​ ​​ ​ ​ ​ ​​​ ​ ​​ ​ ​ ​
Ngựa hoang là loài bản địa nơi đây, chúng gần như đã bị tuyệt chủng trong tự nhiên, và hiện nay đang được lai tạo và nuôi dưỡng ​trong môi trường sống tự nhiên của chúng tại một công viên quốc gia.
​​ ​​​​​​​​
​ ​​ ​ ​ ​ ​​​ ​ ​​ ​ ​ ​
Đàn ngựa trên đỉnh núi tại một công viên quốc gia của Mông Cổ trong mùa đông.​ 

​​ ​​​​​​​​
​ ​​​ ​
Con đường vắng lặng chạy ngang qua một vùng quê​ 

​​ ​​​​​​​​

Trái ngược với cuộc sống tại những vùng thảo nguyên rộng lớn, Thủ đô và thành phố lớn nhất của Mông Cổ là Ulan Bator,là nơi sinh sống của gần 38% dân số.​ 

​​ ​​​​​​​​
​ ​​ ​ ​ ​ ​​​ ​ ​​ ​ ​ ​
Với nhiệt độ không bao giờ lên trên 0 độ trong vài tháng, tác phẩm điêu khắc đá là một trong những cách người Mông Cổ chào mừng mùa đông.​ 

​​ ​​​​​​​​
​ ​​ ​ ​ ​ ​​​ ​ ​​ ​ ​ ​
Một sân bóng rổ ngoài trời, bị bỏ rơi cho đến khi nhiệt độ ấm áp hơn trong mùa hè.​ 

'​​ ​​​​​​​​
​ ​​ ​ ​ ​ ​​​ ​ ​​ ​ ​ ​
Ở Mông Cổ có hơn 1.009.357 tín đồ​​ theo Phật giáo Tây Tạng tức hơn 50% dân số đất nước theo đạo Phật, chính vì vậy những ngôi chùa là hình ảnh khá phổ biến ở đất nước này

​​ ​​​​​​​​
​ ​​ ​ ​ ​ ​​​ ​ ​​ ​ ​
​​ ​​​​​​​​
​ ​​ ​ ​ ​ ​​​ ​ ​​ ​ ​ ​
​​ ​​​​​​​​
Du khách khắp nơi trên thế giới đến với Mông Cổ thường chọn phương tiện di chuyển là tàu hỏa, chúng sẽ xuất phát từ Trung Quốc và đưa du khách tới Ulan Bator​. Nhiều người Mông Cổ cũng đi tàu hỏa để đến Trung Quốc du lịch và mua sắm.