Thứ Hai, 24 tháng 8, 2015

Tết truyền thống của người Mông Cổ

Nét đặc sắc trong ngày Tết truyền thống của người Mông Cổ

Cũng giống như Việt Nam, tại nhiều nước Đông Á khác, ngày Tết Nguyên Đán cổ truyền Tsagaan Sar không chỉ là một ngày lễ cổ truyền báo hiệu kết thúc một mùa đông dài và lạnh lẽo để đón chào một mùa xuân mới mà còn là dịp để các thành viên xa gia đình trở về đoàn tụ trong sự hoà thuận, yêu thương và mọi người dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất.

Nằm hoàn toàn trong lục địa ở Trung Á, phía Bắc giáp Nga và phía Nam giáp Trung Quốc, Mông Cổ là một đất nước khá rộng với diện tích 1,56 triệu km² và dân số trên 2,7 triệu người với mật độ dân cư thưa thớt. Văn hóa Mông Cổ ảnh hưởng khá nhiều từ nền văn hóa Nga và Trung Quốc. 

Cũng như Tết Nguyên đán của ta, Tết Tsagaan Sar của người Mông Cổ sẽ kéo dài từ ngày mồng 1 Tết âm lịch cho đến hết ngày mồng ba âm lịch. Tết Tsagaan Sar là một trong những dịp lễ rất quan trọng của người dân Mông Cổ.



Mông Cổ là một trong số ít quốc gia ăn Tết Âm lịch giống Việt Nam. Ở Mông Cổ, hai dịp lễ quan trọng được chờ đợi nhất là Tết tháng trắng (người dân địa phương gọi là Tsagaan Sar) vào tháng giêng và tết Naadam vào tháng 7.

Những ngày này, mọi người cùng “rửa sạch” cả thể xác lẫn tâm hồn để đón chào khởi đầu mới tốt, đẹp hơn. Nghi thức trước đêm Giao thừa của người Mông Cổ là rửa sạch chén bát với sữa ngựa.

Tất cả nam giới lên đỉnh ngọn đồi hay núi gần đó, mang theo thực phẩm và cầu nguyện. Rồi người ta đi về hướng nào đó theo tử vi – được gọi là muruu gargakh (lễ xuất hành). Người ta tin rằng nếu xuất hành đúng hướng sẽ gặp may quanh năm. Mặt trời vừa ló dạng là những người trong gia đình chào hỏi nhau. Người lớn tuổi nhất ngồi ở hướng bắc và những thành viên trẻ đến chào ông (bà) trước khi chào hỏi lẫn nhau. Hết thảy mọi người chào hỏi lẫn nhau trừ vợ chồng.

Một ngày trước năm mới được gọi là Bituun có nghĩa là “tối thui” bởi trong đêm này, bầu trời hoàn toàn không có ánh trăng hay sao. Vào ngày Bituun, người dân Mông Cổ tập trung dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, cũng trong ngày này, người Mông Cổ cố gắng giải quyết rốt ráo mọi vấn đề và trả mọi khoản nợ nần, ăn thật no vì họ tin rằng nếu không làm như vậy thì trong suốt cả năm mới sẽ bị đói.. Vào tối Bituun, mọi thành viên trong gia đình đều tụ tập bên nhau để tiễn đưa năm cũ và đón giao thừa



Vào thời khắc Giao thừa, người Mông Cổ thực hiện tục uống trà đầu năm. Trước tiên, họ pha trà rót ra 1 chén đầu tiên, đem ra trước sân nhà vẩy khắp 4 hướng. Chén trà thứ 2 dành mời chủ nhà, sau đó lần lượt mời các thành viên khác trong gia đình.



Món ăn truyền thống trong Tết Tsagaan Sar là các sản phẩm làm từ sữa, bánh buuz (giống như bánh bao), thịt cừu, thịt bò, sữa dê, cơm ăn cùng với sữa đông; hay cơm ăn chung với nho khô, thịt cừu nướng, thịt ngựa, bánh buuz, sữa ngựa lên men hoặc rượu vodka trộn sữa.



Ngày Tết gặp nhau, người Mông Cổ chúc nhau bằng câu nói: "Chúc cho đàn cừu của bạn béo tốt". Ở xứ sở này, cừu đông hơn người. Với người Mông Cổ, đàn cừu đóng vai trò vô cùng quan trọng vì đây là nguồn lương thực chính của họ. Hầu hết các món ăn ngày tết của người Mông Cổ đều chế biến từ sữa cừu và trên mâm cỗ lúc nào cũng có thịt cừu nướng và mỳ vằn thắn.


Ngày Tết Tsagaan Sar, người Mông Cổ không thể thiếu những hoạt động đua ngựa, bắn cung gắn liền với cuộc sống mỗi ngày của người Mông cổ. Đặc biệt không chỉ có nam giới Mông Cổ mới tham gia bắn cung, đua ngựa, mà chính phụ nữ Mông Cổ, nhờ thói quen với cuộc sống du mục mà cũng tham gia với sự thành thục và kĩ năng không thua kém phái mạnh.

Món ngon gây thèm thuồng cho du khách khi đến Mông Cổ

Khí hậu khắc nghiệt và vùng thảo nguyên bao la chuyên chăn thả gia súc, khiến cho ẩm thực Mông Cổ chủ yếu xoay quanh các món từ thịt và chất béo động vật.

Không chỉ khiến khách du lịch nước ngoài tò mò về thực đơn hàng ngày, cách chế biến món ăn nơi đây cũng khiến nhiều người ngỡ ngàng.

Dê hầm đá

Nguyên liệu để làm món dê hầm đá gồm thịt dê được chia thành từng tảng nhỏ đã bỏ xương, rau củ, một chút gia vị và… đá.

Không phải loại đá nào cũng được tận dụng để nấu nướng. Người dân nơi đây chỉ chọn khoảng 20-25 hòn đá to tương đương với nắm tay, bề mặt nhẵn rồi rửa sạch, hơ nóng trong lửa suốt hàng tiếng đồng hồ. Sau khi “sơ chế” đá, người ta xếp xen kẽ đá với các tảng thịt sao cho vừa khít chiếc nồi nấu. Lớp trên cùng được lấp đầy bằng củ, gia vị và rau xanh nếu có. Ngoài tác dụng giúp món ăn chín đều, các viên đá khô khốc còn có tác dụng thấm bớt lớp mỡ ngậy của thịt dê. Khi “ra lò”, món ăn được thưởng thức bằng tay thay vì dùng nĩa để tách nhỏ.



Để nấu món dê hầm đá, người dân nơi đây chỉ chọn những hòn đá to tương đương với nắm tay, bề mặt nhẵn rồi rửa sạch, hơ nóng trong lửa suốt hàng tiếng đồng hồ. Ảnh: reddit.com



Món dê hầm đá hấp dẫn. Ảnh: discovermongolia

Thịt cừu nướng

Món cừu của người Mông Cổ có nhiều cách chế biến khác nhau, nhưng nổi bật và ấn tượng hơn cả vẫn là các món nướng. Đùi cừu nướng cùng các loại rau thơm, thảo quả được xem là linh hồn của tất cả các bữa tiệc của người Mông Cổ… Hình ảnh bếp lửa cháy bập bùng giữa tiết trời giá lạnh, bao quanh là những người đàn ông, phụ nữ và cả những đứa trẻ hai má đỏ ửng lên vì rét đang cùng chờ đợi những xiên thịt cừu chín, dường như đã trở thành một nét văn hóa của người dân Mông Cổ.



Đùi cừu nướng cùng các loại rau thơm, thảo quả được xem là linh hồn của tất cả các bữa tiệc của người Mông Cổ. Ảnh: discovermongolia

Bánh hấp (Buuz)

Bánh hấp là loại bánh không quá xa lạ đối với du khách, song cách chế biến bánh với lớp nhân ngồn ngộn thịt của người Mông Cổ khiến không ít người tò mò. Để làm nên chiếc bánh hấp (buuz), các đầu bếp tại đây sẽ chuẩn bị nhân bánh bằng nguồn nguyên liệu sẵn có như thịt cừu hoặc bò kết hợp với hành tây, tỏi và gia vị.



Bánh hấp của Mông Cổ có nhân bánh bằng nguồn nguyên liệu sẵn có như thịt cừu hoặc bò kết hợp với hành tây, tỏi và gia vị. Ảnh: roadtripmongolia.wordpress.com

Do rau xanh, củ quả ở đây khá hiếm nên nếu có điều kiện, người ta sẽ cho thêm hạt cây thì là, các loại thảo mộc của cao nguyên Mông Cổ cùng với khoai tây nghiền, bắp cải thái nhỏ vào phần nhân. Bởi nhân bánh rất nhiều, nên lớp vỏ khó có thể mềm mỏng như thường thấy mà khá dày để đảm bảo trong quá trình hấp chúng không bị bục nát.

Người Mông Cổ coi bánh hấp là món ăn truyền thống không thể thiếu trong ngày Tết Tsagaan Sar. Tại đây, người ta dùng chúng với xà lách, bánh mì, rượu sữa ngựa hoặc rượu vodka.



Người Mông Cổ coi bánh hấp là món ăn truyền thống không thể thiếu trong ngày Tết Tsagaan Sar. Ảnh: itsdimitri.com

Aaruul

Aaruul là sữa được làm đông lại, khô hoàn toàn tự nhiên trong không khí và dưới ánh mặt trời. Điều đáng chú ý là không có giới hạn trong thời gian sử dụng món ăn này, dĩ nhiên là với điều kiện thời tiết đặc trưng của Mông Cổ thôi. Bởi độ cứng “không phải vừa đâu” của món ăn này mà các chuyên gia tin rằng, Aaruul là một trong những yếu tố “đảm bảo” cho răng chắc và khỏe mạnh của người Mông Cổ.



Aaruul là sữa được làm đông lại, khô hoàn toàn tự nhiên trong không khí và dưới ánh mặt trời. Ảnh: panoramicjourneys.com



Một cơ sở chuyên sản xuất Aaruul ở Mông Cổ. Ảnh: discovermongolia

Airag

Ngoài các món ăn trứ danh được chế biến từ cừu, người dân nơi đây còn tự hào về rượu sữa ngựa, còn biết đến với tên gọi Airag.



Rượu sữa ngựa là loại thức uống quen thuộc trong mọi bữa ăn của người Mông Cổ. Ảnh: pinterest.com

Rượu sữa ngựa được nhiều người ưa chuộng nhờ lượng vitamin và protein dồi dào. Đặc biệt để có được ly rượu sữa sóng sánh, người làm phải trải qua quá trình chế biến công phu. Cụ thể, muốn có được lượng rượu đủ dùng cho cả gia đình, người ta phải cần sữa của ít nhất 10 chú ngựa cái. Khi có được nguyên liệu, sữa được đưa vào một chiếc túi da treo trên cao. Hàng ngày, người làm phải lắc đều khoảng 1.000 lần sao cho rượu không quá lỏng, không quá đặc. Uống vào có vị chua chua của men, béo của sữa ngựa thì đạt chuẩn.



Nguyên liệu sữa ngựa được đưa vào một chiếc túi da treo trên cao. Ảnh: hisitaly.com

Tập quán ăn uống của người Mông Cổ

Đối với người Mông Cổ, bữa ăn đồng nghĩa với thư giãn và thanh thản, vì khi đó không phải ngồi trên mình ngựa hoặc đi lang thang trên thảo nguyên. Do vậy mà họ rất coi trọng bữa ăn và có những quy ước cụ thể. Người Mông Cổ là một dân tộc du mục, dân số rất ít. Thức ăn của họ chủ yếu từ thịt và sữa. Sữa là món ăn cơ bản của tất cả mọi người, được gọi là “thức ăn trắng”.
 
 

Ngôn ngữ Mông Cổ có 350 từ khác nhau để chỉ các món ăn chế biến từ sữa. Thức ăn bằng sữa thường dùng vào mùa hè, mùa của mưa và gia súc sinh đẻ, biểu tượng sự hồi sinh của vạn vật. Lúc đó bữa ăn có đủ thứ làm bằng sữa: sữa chua, pho mát tươi, kem, bơ. Thời gian còn lại trong năm họ dùng thức ăn “cứng” (để đông lạnh hay sấy khô, đặc biệt pho mát sấy khô trở nên cứng như đá), có thể bảo quản lâu và đem đi dễ dàng.

Sữa còn được chế biến thành hai thứ rượu. Người ta đổ sữa ngựa vào một chiếc túi da đặc biệt rồi treo lên bên trái cửa ra vào lều. Mỗi ngày phải đảo và đánh sữa hàng trăm lần để làm men. Người lớn, trẻ con và khách vãng lai, ai đi qua cũng cầm chiếc gậy cắm sẵn trên miệng túi da và khoắng mạnh bên trong.


Rượu cất bằng sữa để uống vào mùa đông có tác dụng chống rét. Người ta chưng cất sữa đã lên men, được giữ lại từ mùa hè. Nồi cất của họ rất thô sơ, ống dẫn rượu làm bằng gỗ. Để cho hơi khỏi bị thoát, khi nấu người ta phủ vải lên trên. Rượu cất lần đầu chỉ đạt 20% độ cồn. Cất lần thứ hai đạt 35%. Đến lần thứ tư mới được một thứ cồn mà tiếng Mông Cổ gọi là “thuốc độc”. Rượu này chỉ uống trong những bữa tiệc đầu năm.

Khi mùa đông đến “thức ăn đỏ”, tức là thịt, được thay thế sữa. Thịt được sấy khô hay đông lạnh, khi ăn phải nấu kỹ. Người Mông Cổ phân biệt thịt nóng là thịt của con vật có mõm nóng, còn thịt lạnh là của loài có mõm lạnh. Thịt nóng được ăn trong những bữa ăn tập thể theo nghi thức hay trong giao tế xã hội. Còn thịt lạnh dùng trong bữa ăn gia đình, ít khi mời khách và không bao giờ dùng để thờ cúng. Thịt nấu để cả xương mà gặm là món ăn được ưa chuộng nhất, người nào sau bữa ăn để mỡ chảy đến tận khuỷu tay, vết mỡ và thức ăn bắn khắp người, đó là điềm của sự phồn vinh. Miếng ngon nhất đối với họ là thịt ở đầu con vật, những rẻo thịt bám quanh hàm. Người ta cầm cả cái đầu cừu để gặm và miếng đó thường dành cho khách quý. Ở Mông Cổ nói đến ăn có nghĩa là ăn thịt. Nói chung, mỗi gia đình chuẩn bị bữa ăn tối bằng một nồi thịt béo ngậy, chỗ ăn thừa sẽ để lại cho bữa sáng hôm sau.



Thức uống chủ yếu của họ là chè. Không trồng nhưng họ mua chè của người Trung Quốc từ lâu, thứ chè đóng thành bánh, nén chặt, sấy khô, có thể để lâu, vận chuyển dễ dàng. Xưa kia họ còn coi chè như một thứ tiền để trao đổi gia súc. Chè được bẻ từng miếng bỏ vào nồi đun sôi và uống nóng. Người ta thường pha chè với váng sữa hoặc bỏ pho mát khô vào để đun cho tan. Đây là thức uống sau bữa ăn, không ai có thể từ chối. Nếu một người khách tỏ ra vội vã, không chờ uống một bát chè sau bữa ăn thì bị coi như là trốn chạy.



Người dân phía Bắc còn là những người đi săn giỏi. Họ bắn những con thú lớn như chó sói và gấu, nhưng chủ yếu là thú nhỏ như chồn, cáo để lấy lông bán cho người Nga từ thế kỷ 18. Ngày nay việc săn bắn bị luật pháp cấm đoán nên nhiều đi săn chuyển sang đánh cá, cái nghề trước kia bị coi rẻ. Cá đang chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong bữa ăn của họ. Mùa hè thức ăn chủ yếu chế biến từ sữa, đôi khi có thêm hạt và đậu. Mùa đông thì chỉ có thịt. Rau và quả hầu như không được biết đến.

Đà Lạt tháng 10 mùa hoa dã quỳ nở rộ

Hoa dã quỳ gắn bó với cuộc sống của người dân bản địa. Khi mùa mưa kết thúc, Đà Lạt bước vào mùa hoa dã quỳ vàng rực khắp các ngã đuờng. Hoa dã quỳ có hình dáng hao hao giống hoa hướng dương nhưng nhỏ hơn. Tuy nhiên hoa dễ sinh trưởng, lại mọc thành bụi nên mỗi khi nở tạo thành một thảm hoa vàng rực khắp các triền đồi và thảo nguyên.



Được người Pháp đưa vào Đà Lạt từ rất lâu trước đây, trải qua hàng chục mùa hoa nở rộ, dã quỳ đã trở nên quen thuộc với nguời dân bản xứ, gắn liền với tuổi thơ của nguời dân nơi đây. Khi tiếp xúc trò chuyện với những bạn bè người Đà Lạt, nhắc đến hoa dã quỳ chắc chắn không ít lần họ sẽ kể cho bạn nghe những kỷ niệm gắn với loài hoa này. Đó có thể là những ngày 20/11 với những bó hoa dã quỳ e ấp trong tay dành tặng cho thầy cô giáo, hay chỉ cần hai bông hoa dã quỳ và một vài cọng cỏ dại là đã có một chiếc xe đẩy hoặc xe đạp hai bánh màu vàng thật xinh ép vào trang sách… Rồi những lần cùng với “nửa kia” hẹn hò đi dạo dọc đường hoa vàng rực trong cái khí trời se lạnh của thành phố.



Gắn liền với tuổi thơ tuyệt vời như thế, chẳng trách mà người dân Đà Lạt xa xứ mỗi lần nhắc đến hoa dã quỳ đều chợt nhớ thành phố đầy mơ mộng này.

Ngày nay, du khách du lịch Đà Lạt rất dễ phải lòng vẻ đẹp kiêu sa pha chút hoang dại của loài hoa này. Giữa khung cảnh thành phố mộng mơ, sắc vàng của dã quỳ như sưởi ấm cả cao nguyên se lạnh, khiến nhiều trái tim du khách phải thổn thức và khó lòng quên được cái cảm giác được chìm đắm trong khung cảnh tuyệt đẹp đó.



Nhiều du khách chọn cách thuê xe máy đi dạo một vòng ngoại ô thành phố, băng qua những cung đường với những hàng rào hoa dã quỳ vàng ươm. Những đoạn đường đèo rực sắc dã quỳ mê hoặc du khách ở đây gồm có đường từ D’ran lên hay đoạn từ Liên Khương về Đà Lạt, đường đi Tà Nùng, đèo Phú Hiệp, đoạn suối Thông. Sắc vàng của hoa thoắt ẩn thoắt hiện trong tầng mây la đà buổi sớm mai trên những cung đường đèo uốn lượn khiến du khách thích thú như lạc vào cõi tiên.

Ở trung tâm thành phố không có nhiều hoa dã quỳ như ở ngoại ô, nhưng nếu thích bạn vẫn có thể tìm thấy nhiều hoa ở một vài nơi như Thung lũng tình yêu. Giữa muôn vàn sắc hoa nơi đây, không khó để du khách nhận ra nét hoa vàng độc đáo của dã quỳ.


Đà Lạt, hoa dã quỳ, cung đường đẹp 

Thời gian lý tưởng nhất để chụp ảnh với hoa dã quỳ: Mùa hoa dã quỳ bắt đầu từ khoảng giữa tháng 10 trở đi. Thời điểm lý tưởng nhất để chụp ảnh với hoa đó là vào buổi sáng khoảng 9 đến 10 giờ, hoặc buổi chiều khoảng 3 đến 4 giờ. Lúc này hoa nở rộ, trời trong xanh và nắng vừa nhẹ hắt lên những cánh hoa vàng ươm.

Đà Lạt, hoa dã quỳ, cung đường đẹp

Nếu bạn yêu thích, muốn trồng hoa cũng không khó. Vì hoa dã quỳ vốn là loài hoa dại rất dễ sống mà không cần chăm sóc nhiều. Bạn chỉ cần cắt cành về cắm xuống đất là được. Tuy nhiên, thân và lá cây có mùi có thể khiến một số người khó chịu, vì vậy bạn nên trồng hoa ở nơi thoáng mát.

Miền Tây đón mùa nước nổi




Khi cái gay gắt của nắng hạ không còn thiêu đốt cũng là lúc miền Tây bước vào “mùa nước nổi”. Khoảng thời gian đặc biệt ấy đã gắn liền với tuổi thơ của nhiều người, một kỷ niệm không thể quên khi nhớ về quê nhà.

Hằng năm, cứ vào tháng 8, 9 âm lịch, nước từ đầu nguồn sông Mekong cuồn cuộn đổ về với tốc độ nhanh như chớp. Nước về An Giang, Đồng Tháp sớm nhất, sau đó mới “chạy” xuống các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long khác như Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Kiên Giang… Lúc này, người miệt sông nước đã chuẩn bị sẵn lưới, giăng câu, lợp, lờ, đó, đăng… để đón bầy cá từ thượng nguồn.



Vài tháng trời, khu chợ quê tràn ngập cá linh, cá lóc, cá trê, cá rô, cá chạch, lươn, rùa, rắn, chuột đồng… rồi bông điên điển, bông súng đồng, bông so đũa… thật mướt mắt. Thích nhất là cá rô đồng to hơn hai ngón tay, thịt ngọt thơm nấu gì cũng ngon, từ kho tộ, kho tiêu, nấu canh chua bông súng hay chiên xù. Rồi những con cá linh nhảy tanh tách nấu canh bông điên điển, chuột đồng nướng vàng ruộm… tất cả là bữa tiệc dân dã ngon miệng vô cùng.



Mùa này, rừng tràm Trà Sư đã tràn nước, mang theo từng mảng bèo tấm xanh mướt phủ khắp bến bờ. Ngồi trên chiếc xuồng nhỏ, chậm rãi buông mái chèo, du khách an nhàn ngắm tia nắng lấp lánh xuyên qua đám rừng già, hít căng hương hoa tràm thơm ngát. Kia là thế giới sinh động của vô số loài chim quý: cò, diệc, cồng cộc, chích, le le, gà nước, điên điển… thản nhiên bay mà không thèm quan tâm đến những vị khách lạ.



Vào mùa nước nổi, đến với những khu chợ nổi tiếng trong vùng như Cái Răng, Phụng Hiệp, Cái Bè… bạn sẽ hòa mình vào thế giới thu nhỏ của vùng sông nước với đủ sản phẩm miệt vườn. Đôi khi không cần mua hàng, chỉ ngắm xoài, cam, chôm chôm, thanh long, bưởi xanh tươi… cũng no con mắt. Xen lẫn trong tiếng máy nổ là tiếng nói cười rộn rã của khách đi chợ, tiếng mời dịu ngọt của tiểu thương. Chợ vãn mà vẫn vẹn nguyên cảm giác bồng bềnh trên mỗi khúc sông, làm lòng ai nấn ná chẳng muốn ra về.





Trải nghiệm Tràm Chim


Cũng từ quốc lộ 30 tiếp tục đi về hướng Hồng Ngự, tới ngã ba Thanh Bình có con đường lớn bên phải, quẹo vô đi chừng 17km là tới vườn quốc gia Tràm Chim (huyện Tam Nông, Đồng Tháp). Trên đường đi tắc ráng vô rừng, đủ loại chim trích mồng đỏ, le le, cồng cộc... bay nhảy đùa giỡn ngay trước mắt. Khoảng 30 phút là tới cánh đồng sen, súng nở rực trời. Trên đồng nước mênh mông, từng đám lúa ma - loài lúa độc nhất vô nhị còn sót lại ở Đồng Tháp Mười - lú ngọn khỏi mặt nước. Nước nổi dâng cao tới đâu, lúa ngoi theo tới đó, sống mạnh mẽ, trổ bông chín oằn. Bạn có thể vói tay nhổ một cây lúa ma để trải nghiệm cuộc sống nông dân xưa ở vùng này. Tính từ gốc tới ngọn, nó có thể cao hơn 2m.

Mùa nước nổi là thời điểm lý tưởng nhất trong năm mà du khách không nên bỏ lỡ để khám phá cuộc sống nơi miền Tây sông nước

Lênh đênh miền Tây sông nước

Miền Tây đi vào lòng người với những đồng ruộng thẳng cánh cò bay, câu giọng cổ ngọt lịm và những vườn cây trái tốt tươi cùng nét văn hóa sông nước độc đáo mà ít nơi đâu có được. Cũng chính vì điều đấy, miền Tây như thỏi nam châm thu hút biết bao du khách dừng chân khám phá, mong muốn một lần được đến đây và mục sở thị vô vàn những điều tốt đẹp đã từng nghe.

Đừng bỏ lỡ những miệt vườn trù phú

Được nhánh sông Mê Kông bồi đắp khá nhiều phù sa hằng năm nên khu vực miền Tây được xem là nơi đồng bằng trù phú nhất Nam bộ. Ngoài những cánh đồng lúa bao la bát ngát, miền Tây còn nổi danh với hàng loạt những vườn trái cây nhiệt đới nổi tiếng như: chôm chôm, vú sữa, sầu riêng, quýt, cam, sampoche…

Thưởng thức đủ loại cây trái ngọt lành, tham quan, tìm hiểu cách nuôi trồng, tận tay hái những quả chín mọng rồi thưởng thức dưới chiếc võng đu đưa mát dịu giữa trưa hè trong câu vọng cổ vang vọng xa xa chắc chắn sẽ mang đến cho du khách cảm xúc khó quên. Vĩnh Long, Tiền Giang, Cần Thơ là 3 khu vực nổi tiếng khi khai thác miệt vườn vào du lịch và đây cũng là những “xứ” nổi tiếng về các loại trái cây ngon, ngọt nhất vùng.

Ngồi đò chèo dạo quanh những con kênh, rạch nhỏ

Sẽ thiếu sót nếu như du khách bỏ qua việc tham quan những ngóc ngách “rặc” miền Tây với chiếc xuồng ba lá mỏng manh, xuôi dòng nước đưa mọi người đến những miền đất lạ. Ngồi trên chiếc xuồng, đò chèo mỏng manh, lắng nghe tiếng mái chèo khua nước, ngắm nhìn hàng dừa nước, cây bần ở hai bên như chắn giữ lấy bờ, không gian yên bình lan tỏa khắp nơi khiến bạn vừa ngắm nhìn bức tranh miền quê thanh bình, vừa hít đầy bụng thứ không khí trong lành tuyệt vời của vùng sông nước.

Chớ quên thăm thú chợ nổi

Loại hình chợ nổi là một trong những nét văn hóa đặc sắc nhất miền Tây. Thay vì họp chợ trên vùng đất bằng phẳng hay chỗ phố xá đông đúc, từ lâu người dân miền Tây đã quen với cảnh họp chợ trên sông. Có lẽ cuộc sống gắn liền với con sông nên những chiếc đò, thuyền là phương tiện đi lại chủ yếu của bà con nơi đây, từ đó dẫn đến việc mua bán cũng gắn với sông, với nước hoặc đơn thuần dòng sông chính là huyết mạch đi lại chính, liên kết giữa nơi này sang nơi khác.

Chợ nổi Cái Bè – Tiền Giang, Cái Răng – Cần Thơ, Phụng Hiệp – Hậu Giang là 3 khu chợ nổi lớn nhất của miền Tây, nơi đây không chỉ là đầu mối vận chuyển lương thực đi khắp nơi mà còn là những điểm tham quan không thể thiếu trong các chương trình tour du lịch miền Tây. Tranh thủ thức sớm khi mặt trời vừa ló dạng, bạn hãy tận hưởng ngày mới khi ngồi xuồng ra tận giữa sông, nơi họp chợ đông đúc để khám phá không gian rộn ràng, huyên náo của kẻ mua, người bán tấp nập. Đây cũng là cơ hội để du khách có thể chọn lựa những nông sản hay những loại trái cây xanh tươi với giá cả đặc biệt rẻ.

Đến mảnh đất cuối cùng của tổ quốc

Xuôi về Cà Mau, mảnh đất cuối cùng của tổ quốc cũng tạo cho bạn một hành trình thú vị. Chẳng xa hoa, sang trọng, Cà Mau đơn giản và bình dị theo cách riêng của mình, một thành phố không quá ồn ào nhưng luôn chứa đựng những điều lý thú, từ những món ngon đặc sản đến khu Năm Căn xa xôi với những nắm đất cuối cùng của vùng trời Việt Nam.

Điểm danh những địa danh nổi tiếng của du lịch miền Tây

Du lịch miền Tây bạn nên tham quan thêm những di tích lịch sử như: Xẻo Quýt, Gò Tháp, Khu di tích cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, di tích Long Mỹ… Hoặc các đền chùa nổi tiếng: Chùa Vĩnh Tràng, Chùa Đất Sét, Chùa Hang, Chùa Dơi, Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam, Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam…



Bạn cũng chớ bỏ qua các địa danh nổi tiếng như: Thạch động Thôn Vân, nhà công tử Bạc Liêu, Cồn Long Lân Quy Phụng, núi Cấm,…

Mùa mưa miền Tây, tháng 10 cũng lắm đặc sắc khi được mang tên “mùa nước nổi”, một cái tên chỉ cần nghe thôi cũng đủ cảm nhận sự chân chất và bình dị. Đây là mùa của cá linh và bông điên điển, lúc này con nước “nhảy” khỏi bờ, tràn ngập khắp nơi với màu đỏ nặng phù sa.

13 tỉnh thành với 13 sắc thái độc đáo, mỗi nơi đều mang trong mình những nét riêng khiến du khách say mê, không hoa mĩ, sang trọng nhưng chúng đều mang linh hồn của một vùng quê và nét văn hóa đặc sắc riêng mình.

Từ xứ kinh kỳ du ngoạn đến vùng cực nam tổ quốc chắc chắn sẽ gặp muôn vàn điều khó khăn, vậy nên du khách hãy lưu ý một số điều sau:
  • Mỗi vùng Việt Nam, từ Bắc, Trung Nam đều mang đặc điểm giọng nói riêng. Không trầm ấm như miền Bắc, người miền Nam đặc biệt là miền Tây nói âm giọng ngọt vô cùng, lảnh lót và dễ thương. Tuy nhiên, chắc chắn du khách sẽ phải gặp trở ngại rất nhiều về ngôn ngữ, vừa chất giọng vừa là những từ ngữ địa phương.
  • Vì đặc trưng điều kiện tự nhiên nên người miền Tây ăn ngọt rất nhiều, bất kể món ăn nào cũng có nên chút đường hoặc nước dừa, nước cốt dừa để món ăn thêm thơm ngon. Nhưng cũng chính vì điều ấy sẽ gây trở ngại nhiều đối với du khách miền Bắc, một nơi đa phần thích ăn mặn.
  • Du lịch miền Tây đa phần đi ghe, xuồng là chủ yếu nên bạn cũng phải cẩn thận và lựa chọn những dịch vụ đảm bảo sự an toàn.

Món ngon Đà Lạt không thể bỏ qua

Ẩm thực Đà Lạt luôn là một trong những yếu tố làm nên nét đẹp và quyến rũ của phố núi. Nếu những cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ, thời tiết mát mẻ trong lành và nếp sống dung dị, thân thiện của người dân nơi đây là điểm thu hút du khách đến với Đà Lạt, thì chính những món ăn đậm đà, chân chất lại là yếu tố níu chân du khách, để lại nhiều ấn tượng khó phai trong lòng người đi.

1. Bánh tráng nướng trứng


Trong tiết trời se lạnh, chiếc bếp than hồng ấm áp cháy lép bép, chiếc bánh tráng mỏng được tráng lên chút mỡ hành, trứng cút, thịt băm, tép rang được lần lượt dàn đều. Trong nháy mắt, màu vàng ruộm bao phủ toàn chiếc bánh, mùi thơm hấp dẫn lan toả, thêm chút tương ớt cay nồng khiến người ăn không khỏi xuýt xoa. Nơi bán món này ngon nhất là chợ Đà Lạt vào tầm chiều tối.


Bánh tráng có mè đen hoặc loại bánh không có mè đen, được quết lên một lớp dầu ăn, mắm ruốc, ớt ngâm, tép, thịt băm rồi bỏ lên vỉ nướng. Đập trực tiếp trứng gà hoặc trứng cút vào chiếc bánh tráng rồi thoa đều bằng một cây quét nhỏ. Tiếp theo sẽ rắc hành tươi được thái nhỏ lên trên, thêm hành phi và ruốc sấy khô (loại dùng trong bánh tráng trộn). Vì có một lớp dầu ăn được hòa quyện với mắm, ớt nên không lo bánh tráng bị cháy. 

2. Bánh căn


Không phải là món ăn có nguồn gốc từ Đà Lạt nhưng đây là món bánh được nhiều người ưu chuộng. Bạn có thể tìm thấy món này ở mọi ngõ ngách Đà Lạt nhưng ngon và nổi tiếng nhất phải kể đến các quán nằm trên đường Tăng Bạt Hổ. Cái ngon nhất của bánh căn là nước chấm thường là mắm nêm hoặc nước mắm pha có thêm viên xíu mại nhỏ xíu. Còn gì bằng chấm ngập một chiếc bánh còn nóng hôi hổi rồi cắn một miếng bánh đã thấm nồng vị ớt, béo ngậy mùi hành phi. Vị ngon của món bánh toát lên từ cái xuýt xoa vì lạnh, sự háo hức chờ đợi bánh chín.


Bánh căn đổ bằng bột gạo, nhân thì tùy ý thích khách hàng. Quán này có nhân trứng các loại (trứng gà, trứng cút), thịt bò, giá, v.v… Chấm nước mắm hoặc mắm nêm. Ở đây có thêm xoài, xíu mại, đậu phụng, hành lá, v.v.. nên nước chấm rất đậm đà .


Bánh Căn được đổ vào những khuôn bằng sành. - Ảnh: Duffer Long

Cái ngon nhất của bánh căn là chấm ngập cặp bánh còn nóng hôi hổi vào chén nước chấm, rồi cắn một miếng bánh đã thấm nước chấm nồng vị ớt, béo ngậy mùi hành phi. Chỉ đơn giản là vậy nhưng dưới trời Đà Lạt thì khác hẳn.


Hương vị bánh Căn chấm nước mắm ớt cay, nhắm với chút bia làm du khách khó quên. - Ảnh: Studio Cafe

Vị ngon của món bánh toát lên từ cái xuýt xoa vì lạnh, sự háo hức chờ đợi bánh chín của thực khách, cũng có thể từ gò má ửng hồng của người thiếu nữ đang cần mẫn tra bột vào khuôn. Hay đơn giản là từ chén nước chấm có sự hiện diện của viên thịt xíu mại bé xíu “không đụng hàng” với các vùng, miền khác.


Bánh làm vừa tới, vừa mềm vừa chút giòn giòn sựt sựt. Chấm thứ nước sốt là nước mắm ớt cay được nấu nóng, trong nước mắm có thịt viên cùng với nước thịt ngọt ngọt. Nếu ăn món bánh căn nóng hổi của đà lạt vào một buổi chiều mưa lạnh lạnh thì không còn từ gì có thể miêu tả cái ngon tuyệt vời của nó.

Quán nằm đối diện trường Quang Trung. Đi từ Nhà thờ Con gà khoảng 200m sẽ thấy đường Nhà Chung bên tay phải, đi bộ khoảng 400m nữa sẽ thấy quán nằm bên tay trái. Quán chỉ mở cửa buổi chiều, từ 16h30 – 17h chiều. Gía cả thì tùy loại nhân làm bánh mà du khách chọn, giao động khoảng 25.000 đồng/người.

Bánh căn tại số 15 Nhà Chung, đối diện đường Quang Trung. - Ảnh: Windpro.


3. Bơ kem


Kem bơ bán bình dân ở chợ Đà Lạt 15.000 đồng/ly được chế biến khác với sinh tố bơ. Một trái bơ to được bỏ hột, nạo lấy thịt cho vào ly trước khi múc thêm những viên kem ngọt ngào lạnh buốt cho vào bên trên. Kem bơ bán ở chợ là món thưởng thức thường ngày của người dân buôn bán ở chợ và du khách biết đến món này, từ sự giới thiệu của người dân địa phương. So với cách chế biến sinh tố bơ và kem thì cách làm này có vẻ ngon miệng hơn, nhiều du khách thừa nhận đã bị “nghiện” ngay từ lần đầu tiên thưởng thức.

4. Dâu tây kem



Dâu tây là đặc sản nổi tiếng Đà Lạt vì vậy sẽ là thiếu sót nếu bạn đến đây mà không nếm thử món kem được làm từ dâu tây tươi hái tận vườn, được trộn với sữa tươi, trứng cùng một số nguyên liệu khác. Thưởng thức dâu tây kem trong tiết trời se lạnh Đà Lạt dường như càng làm món ăn thêm thi vị và hấp dẫn, khi vị ngọt tươi của dâu tây quyện với vị mát lành của kem. Món này ngon nhất phải tại phố Phan Đình Phùng.

5. Món xắp xắp


Tuy tên gọi là lạ nhưng đây là món ăn quen thuộc khi khá giống nộm bò khô ở Hà Nội và gỏi khô bò ở Sài Gòn. Thành phần chính của món xắp xắp là đu đủ bào sợi, phổi bò hoặc gan heo rim kỹ, đậu phộng, rau húng quế, nước mắm chua ngọt… Bạn có thể tản bộ Hồ Xuân Hương rồi dừng lại ở quán nhỏ bên bờ hồ để thưởng thức món ăn này.

6. Bánh ướt lòng gà

Sự kết hợp độc đáo giữa bánh ướt và lòng gà đã gợi sự tò mò của không ít du khách khi đến Đà Lạt. Để rồi khi nếm thử, ai nấy đều thích thú với hương vị rất lạ mà lôi cuốn của món ăn. Vị dẻo mềm của bánh hoà quyện cùng vị thơm, ngọt của thịt gà. Món bánh ướt lòng gà nổi tiếng nhất là tại đường Tăng Bạt Hổ, gần chợ Đà Lạt.

7. Bánh mì xíu mại


Xíu mại Đà Lạt ngơm ngậy, ngon khó tả. Một suất xíu mại đầy đủ sẽ bao gồm một chén thịt và nước sốt, kèm một ổ bánh mì nóng. Viên xíu mại Đà Lạt cũng được làm từ nạc băm nhuyễn, ướp hành, tỏi, ớt nhưng nhỏ hơn, độ sệt của thịt cũng như nước sốt đều được làm loãng bớt. Xíu mại Đà Lạt luôn có váng mỡ béo ngậy nhưng khi ăn lại rất thanh mà không hề ngấy. Ngoài các quán trước cổng trường học, cổng chợ, bạn có thể đến ngã ba Trần Nhật Duật – Hoàng Diệu để cảm nhận được hương vị đúng điệu của món ăn.

8. Bánh canh


Bánh canh thì ở đâu cũng có, nhưng thưởng thức trong tiết trời se lạnh Đà Lạt lại mang đến một cảm nhận rất riêng. Đó là màu sắc hài hòa trong bát bánh canh khi hội tụ màu trắng của sợi bánh dai mềm, nóng hổi, màu vàng của chả và hành lá xanh xắt nhuyễn. Nổi tiếng nhất ở Đà Lạt là quán bánh canh Xuân An trên đường Nhà Chung, bánh canh Phan Rang ở đường Trần Phú hoặc Hai Bà Trưng.

9. Sữa đậu nành nóng

Dọc theo đường vào chợ Đà Lạt là một dãy chuyên bán sữa đậu nành nóng và một số loại bánh ngọt được bày bán khá hấp dẫn, đây đã trở thành thức uống yêu thích của nhiều khách du lịch tới Đà Lạt. Ngoài sữa đậu nành, những gian hàng này còn có thêm sữa đậu xanh, đậu phộng, mè đen…loại nào cũng thơm ngon, beo béo, có vị ngọt thanh nhưng rất đậm đà. Mỗi ly sữa đậu nành chỉ được bán chừng giá 7.000 – 10.000 đồng nên càng được ưa chuộng đặc biệt.


10. Cà phê

Đà Lạt khá nổi tiếng với văn hoá cà phê vỉa hè, giản dị mà khó quên như chính con người nơi đây. Cà phê vỉa hè phố núi không đậm đặc như cà phê Hà Nội nhưng cũng chẳng nặng tính “giải khát” như cà phê Sài Gòn mà dịu dàng vừa phải, đủ tỉnh táo cũng đủ để du khách quyến luyến. Người Đà Lạt thường uống cà phê sáng, nhưng các khoảng thời gian khác trong ngày nhấm nháp một tách cà phê nhỏ bên các quán nhỏ mộc mạc quanh Hồ Xuân Hương cũng rất thú vị.

Hãy một lần đến với phố núi để tự mình thưởng thức những món ngon kể trên, thêm cảm nhận về một góc nhỏ trong văn hóa của người dân bình dị hiếu khách của xứ sở ngàn hoa này.

11. Nem nướng


Khác với nem chua rán và nem nướng Ninh Hoà ở Nha Trang, nem nướng Đà Lạt khi ăn thường cuộn kèm với bánh tráng phơi sương, rau xà lách, chuối xanh, khế chua... và nước chấm làm từ tương đặc biệt không lẫn vào đâu được.

Để làm nên món nem nướng cũng thật kì công. Thịt để làm nem là thịt heo vừa mới xẻ thịt mang về xay nhuyễn với tỏi, đường, bột nêm, nước mắm ngon, sau đó vo thành những viên tròn rồi bao quanh que tre để nướng. Muốn cho nem ngon thơm và khi nướng bóng đẹp thì nên có thêm chút thịt mỡ. Than hoa được quạt thật hồng, đặt những xiên nem lên nướng, khi nghe tiếng xèo xèo của mỡ heo chảy xuống, mùi thơm lan tỏa xung quanh, mặt ngoài của nem có màu vàng là đã chín.

Nem nướng sẽ có mùi vị thơm đặc trưng hấp dẫn. - Ảnh: Roman™ photography

Nước chấm ở đây nấu từ xương heo được ninh kỹ lọc lấy nước cốt cộng với tương hột xay, rồi đánh nhuyễn hai hỗn hợp này lại với nhau, sau đó nêm gia vị nước mắm, bột nêm cho vừa ăn, thêm vừng (mè) rang, khi nào ăn mới múc nước chấm ra chén cho nóng. Nhờ vậy mà vị béo thơm của thịt nướng cùng vị tươi mát của rau quả ngọt của nước chấm, giòn của bánh tráng kích thích vị giác làm thực khách thích thú.


Ăn cùng nem nướng luôn có đồ chua, rau sống, bánh tráng và nước chấm làm từ tương. - Ảnh: Pinnee.


Quán nem nướng Bà Hùng là nổi tiếng nhất nhì trong vùng và có nhiều chi nhánh khắp Đà Lạt. Nem được làm từ phần thịt heo nạc ngon nhất và đặc biệt là thịt còn nóng. Sau khi nêm nếm gia vị, nem được nướng trên than hồng tạo nên mùi thơm rất ngon. Quán bán buổi chiều đến tối và duy nhất chỉ món nem nướng nên du khách không còn phải gọi món mà chỉ gọi số phần ăn, giá từ 33.000 - 66.000 đồng/phần. Ngoài ra còn Nem nướng bà Nghĩa – số 4 Bùi Thị Xuân bán cả ngày.

Quán nem nướng Bà Hùng 254 Phan Đình Phùng, Đà Lạt. - Ảnh: Windpro

12. Cơm gà Hải Phan Rang


Cơm gà Hải Phan Rang khi đến Đà Lạt ở chính xác là số 28, chứ không phải 15 Trần Nhật Duật. Quán có 1 bà chủ tuổi trung niên và 4 nhân viên phục vụ, trong 4 nhân viên phục vụ có 1 người trạc gần gần tuổi bà chủ, 3 người còn lại chắc nhỏ hơn khách du lịch. Quán có cả thảy 3 cái thớt. 1 thớt gỗ to, dày, và nặng dùng để chặt gà, xếp riêng ra 1 góc – góc để chặt gà. 2 thớt còn lại nhỏ và mỏng hơn, cái gỗ để thái lòng mề gà, cái nhựa để xắt dưa chuột và các loại củ. Bà chủ chặt gà rất nhẹ nhàng, đơn giản.

13. Bún bò ấp Ánh Sáng


Khu ấp ánh sáng nay đã bị giải tỏa và không còn đông đúc quán xá như trước, tuy nhiên những món ăn đậm đà chất Huế khu phố này ắt hẳn sẽ vẫn còn mãi trong lòng du khách đã từng được thưởng thức.
Tuy là đặc sản của Huế nhưng khi đến ấp Ánh Sáng, cạnh Hồ Xuân Hương, Đà Lạt, bạn vẫn có thể thưởng thức bún bò với hương vị không hề thua kém, có chăng chỉ là chút biến tấu để hợp hơn với khẩu vị của xứ lạnh cao nguyên. Đó là thay vì rau muống chẻ, bát bún bò Huế ở đây ăn kèm với xà lách thái nhỏ, giá đỗ và hoa chuối. Tùy theo khẩu vị, khách có thể gọi giò nạc, giò khoanh hoặc giò sụn.

14. Chả Ram Bắp



Với cách cuốn bắp non bào nhuyễn ướp với gia vị vào bánh tráng rồi chiên đến khi có màu vàng ruộm đã tạo thành một món chả ngọt, thơm rất riêng cho Đà Lạt. Khi ăn, chả ram lại một lần nữa được cuốn với bánh tráng, dưa leo, củ đậu, cà rốt… và rau sống rồi chấm vào chén nước lèo làm từ tương đậu phộng. Bạn có thể tìm ăn món chả ram bắp ở quán cạnh trường tiểu học Nguyễn Trãi hoặc đường Nguyễn Công Trứ.